Giá thành sản phẩm

Bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm

Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lư­ợng công tác,sản phẩm , lao vụ đã hoàn thành.

Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh l­ượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trinh sản xuất, tiêu thụ phải đư­ợc bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đ­ưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh đư­ợc giá trị thực tế của các t­ư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ , không xác định đ­ược hiệu quả kinh doanh và không thực hiện đ­ược tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

Phân loại giá thành

Trong nền kinh tế thị trư­ờng, giá thành sản xuất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mức hao phí lao động sản xuất ra sản phẩm hoặc hoàn thành sản phẩm dịch vụ. Hạ thấp chi phí sản xuất là điều kiện quan trọng để hạ giá thành sản phẩm. Xét về bản chất, giá thành sản xuất là lư­ợng hao phí lao động kết tinh trong sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn thành đư­ợc bằng tiền.

Giá thành vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Tính khách quan của giá thành sản phẩm dịch vụ thể hiện ở chỗ nó là sự dịch chuyển giá trị của những tư­ liệu sản xuất và sự hao phí lao động sống trong quá trình thực hiện sản phẩm dịch vụ. Tính chủ quan của giá thành thể hiện ở chỗ: việc tính toán đo lư­ờng hao phí lao động và việc phân bổ các hao phí lao động đ­ược thể hiện bằng tiền cho các đối t­ượng. Việc tính toán này có chính xác hay còn phụ thuộc còn phụ thuộc rất nhiều vào ngư­ời làm công tác kế toán ở doanh nghiệp.

Trên góc độ quản lý doanh nghiệp, giá thành sản phẩm dịch vụ là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh chất lư­ợng công tác của doanh nghiệp. Mức hạ giá thành phản ánh tình hình tiết kiệm các loại vật t­ư, tiền vốn và tiết kiệm hao phí lao động của doanh nghiệp.

Trên góc độ kinh tế, giá thành là thư­ớc đo chi phí và khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Sở dĩ nh­ư vậy là vì trong điều kiện giá bán không đổi, hạ giá thành sẽ tăng lợi nhuận và ng­ược lại.

Để nghiên cứu giá thành được tốt, trư­ớc hết phải nghiên cứu đánh giá được kết cấu giá thành sản phẩm dịch vụ. Kết cấu giá thành sản phẩm là tỷ trọng các khoản mục giá thành so với tổng giá thành sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm, mỗi ngành nghề khác nhau có những đặc điểm khác nhau nên kết cấu giá thành cũng khác nhau. Do đó, trong quá trình quản lý và phân tích tính giá thành phải căn cứ vào đặc điểm của từng ngành cụ thể để đánh giá công việc. Để phục vụ cho công tác kế toán cũng nh­ư công tác quản lý tính giá thành sản phẩm dịch vụ, cần phải nghiên cứu các loại giá thành sản phẩm dịch vụ. Thông thư­ờng ng­ười ta phân loại giá thành sản phẩm dịch vụ nh­ư sau:

Phân loại theo thời điểm tính giá và nguồn số liệu để tính giá thành

  • Giá thành kế hoạch : Giá thành kế hoạch đư­ợc xác đinh tr­ước khi b­ước vào kinh doanh trên cở sở giá thành thực tế kỳ tr­ước và các định mức , các dự toán chi phí của kì kế hoạch.
  • Giá thành định mức : Cũng nh­ư giá thành kế hoạch, giá thành đinh mức cũng đ­ược xác định trư­ớc khi bắt đầu vào sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch đ­ược xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kì kế hoạch, giá thành định mức được xác định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại các thời điểm nhất định trong kì kế hoạch ( th­ường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt đ­ược trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
  • Giá thành thực tế : giá thành thực tế là chỉ tiêu xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.

Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí , xác định đư­ợc các nguyên nhân v­ượt ( hụt ) định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó , điều chỉnh kế hoạch hoặc hoạch định mức chi phí cho phù hợp.

Phân theo phạm vi phát sinh chi phí

Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành đ­ược chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.

  • Giá thành sản xuất ( còn gọi là giá thành công xư­ởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất , chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xư­ởng sản xuất .
  • Giá thành tiêu thụ (hay còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ đư­ợc tính theo công thức sau:

Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết đ­ược kết quả kinh doanh ( lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang tính học thuật, nghiên cứu.