LỜI CẢM TẠ
Chân thành cám ơn toàn thể Cán bộ, giảng viên trường Đại Học Tây Đô đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành chuyên đề này;
Chân thành cám ơn Thầy TS. Lê Ngọc Triết đã tận tình hướng dẫn để tôi hoàn thành chuyên đề này;
Chân thành cám ơn các Bạn học viên Cao học lớp Quản trị kinh doanh khóa 2, đợt 2 (2015-2017) đã trao đổi tài liệu giúp tôi hoàn thành chuyên đề này;
Kính chúc quý Thầy, Cô cùng toàn thể Cán bộ, Giảng viên trường Đại Học Tây Đô dồi dào sức khỏe, thành đạt trong công việc, gia đình hạnh phúc và thành công trong công tác trồng người.
Cần Thơ, ngày tháng năm 2015
Học viên thực hiện,
Nguyễn Minh Chiến
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới và cũng chính Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng và xây dựng nền giáo dục dân chủ mới cho nước ta.
Tư tưởng của Người với hệ thống những luận điểm khoa học rộng lớn, sâu sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tư tưởng của Người là một kho tàng những giá trị nhân văn cao cả, tư tưởng đó không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà còn có ý nghĩa thiết thực trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phục vụ cho quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là sự kế thừa, tiếp thu biện chứng, có chọn lọc, lọc bỏ, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề:
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá của dân tộc, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam, Triết lý giáo dục trong tư tưởng giáo dục phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo và Người tiếp thu và đúc kết những tư tưởng hợp lý, tiến bộ của thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ CHí Minh đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú, trong và ngoài nước qua nhiều thời kỳ và giai đoạn của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm có tính toàn diện, hết sức sâu sắc, mới mẻ, tiến bộ và hiện đại về vai trò, mục đích, nội đung và phương pháp giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất là trong bối cảnh mới, thời đại của hội nhập và phát triển.
Mặc dù Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta một tác phẩm, hoặc một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm cụ thể, thiết thực, những bài viết ngắn gọn, dễ hiểu, súc tích của Người đã hàm chứa các phương pháp giáo dục mẫu mực. Người chỉ dạy: cách học phải nhẹ nhàng, không gò ép học sinh vào khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú trọng đến sức khỏe của các cháu, chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự phát huy nội lực, tư duy biện chứng Mác - Lênin, óc tư duy lý luận, tư duy kỹ thuật, tư duy kinh tế, óc phê phán và sáng tạo cho người học
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ với xã hội, xa với đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động mới, phải coi trọng cả tài lẫn đức. Không những phải giàu về tri thức mà còn phải có đạo đức cách mạng. Theo Người: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển cũng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Phải "trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt" mà phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra, trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy sống cách chúng ta hơn nữa thế kỷ nhưng tư tưởng giáo dục đào tạo của người vẫn còn nguyên giá trị nhân văn sâu sắc nhất. Mỗi con người Việt Nam chúng ta ngày nay cần phải học tập tấm gương đạo đức của Người để tự rèn luyện nhân cách hay rèn “Tài và đức” giúp chúng ta trở thành những con người hữu dụng cho xã hội hôm nay.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo con người Việt Nam trong hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh trong tiến trình giáo dục và đào tạo con người Việt Nam hiện nay;
Khai thác, kế thừa những giá trị tích cực trong hệ tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người Việt Nam hiện nay.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh, qua đó để thấy được những giá trị tích cực trong hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo con người Việt Nam hiện nay.
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên phương pháp luận nghiên cứu chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đặc biệt sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp. Lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, so sánh, gắn lý luận với thực tiễn nhằm làm rõ nội dung của đề tài.
CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA HỒ CHÍ MINH
1. 1 Hoàn cảnh ra đời và thân thế sự nghiệp của Hồ Chí Minh
1. 1. 1 Hoàn cảnh ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới [Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, 2002].
Người sinh ra khi nước ta đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng lần lượt bị thất bại; đất nước ta vẫn bị chìm đắm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và phong kiến thối nát. Thấy rõ cảnh đất nước lầm than, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sục sôi nhiệt huyết và rất nhạy cảm với thời cuộc đã quyết chí ra đi tìm đường giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào [Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, 2002].
Xuất phát từ tấm lòng yêu thương con người, yêu thương nhân loại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà lòng yêu thương vô hạn của Bác đối với nhân dân được thể hiện nổi bật ở sự gắn bó và tôn trọng nhân dân, luôn tin tưởng vào sức mạnh vô địch của nhân dân. Đối với Người, cách mạng trước hết là sự nghiệp của nhân dân. Người đã tiến hành không mệt mỏi công tác tuyên truyền và giáo dục cho mọi người tinh thần dân chủ trong sinh hoạt chính trị, thức tỉnh ý thức toàn dân tộc trước sự nghiệp chung, phát huy cao nhất sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực của mọi người [Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, 2002].
Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng của thời đại mà hình thành và phát triển nên tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam.
1. 1. 2 Thân thế sự nghiệp của Hồ Chí Minh
Thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam và với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân toàn thế giới. Người là người thầy thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam; là một chiến sĩ kiên cường, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay.
Là một người học trò trung thành và xuất sắc của C.Mác và V. I. Lênin, nêu cao tinh thần cách mạng triệt để và tinh thần độc lập tự chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, sáng lập ra Đảng ta và cùng với Đảng đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Con đường cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định là sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng của thời đại, gắn liền cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần triệt để chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động; đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng dân tộc và giải phóng loài người, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người được thế giới suy tôn là anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết chiến đấu, đạo đức cách mạng cao cả [Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, 2002].
1. 2. Tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giáo dục Việt Nam
Trong suốt cuộc đời hoạt động cứu nước, cứu dân của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục và vai trò, vị trí của người thầy. Nhiều lần Bác đã đi thăm các trường học, các hội nghị của ngành giáo dục, gửi và điện cho thầy giáo và học sinh. Mỗi lần như thế Bác đã có lời dạy chân tình. Trước Cách mạng Tháng Tám, Người coi giáo dục là một bộ phận của công cuộc giải phóng dân tộc. Bản thân Người đã tích cực tham gia huấn luyện, đào đạo đội ngũ cán bộ cách mạng ngay từ khi trở về đất Quảng Châu (Trung Quốc): tổ chức lớp học, biên soạn tài liệu, trực tiếp giảng dạy. Người thực sự là một thầy giáo cách mạng đầu tiên. Nhiều học trò của Người sau đó cũng là những thầy giáo, những nhà giáo dục đi sâu vào phong trào quần chúng vừa dạy văn hóa, vừa tuyên truyền cách mạng cho đồng bào… Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.Trong hoàn cảnh mới, giáo dục trở nên hết sức quan trọng và cấp bách. Chính vì vậy, Hồ Chủ tịch đã đặt nhiệm vụ giáo dục vào trong nhóm giặc cần phải diệt đó là “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Người đánh giá rất cao đội ngũ giáo viên: “Anh chị em là đội tiên phong trong sự nghiệp tiêu diệt giặc dốt. Anh chị em chịu cực khổ, khó nhọc, hi sinh phấn đấu để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hóa sơ bộ cho dân tộc”(3).
Người nhắc nhở phải “Chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”(4).Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên phải thật thà yêu nghề mình. “Còn gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng Chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang, ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa”(5).
Người phân biệt rõ vị trí khác nhau của người thầy trong xã hội cũ và xã hội mới. Xưa nghề thầy giáo là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ăn, nay là sự nghiệp quan trọng “Trăm năm trồng người”, để thực hiện nhiệm vụ nặng nề và cao cả đó, người thầy phải có năng lực phẩm chất cao, phải có lòng yêu nghề, yêu trẻ, phải “Làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”(6). Để làm tốt công việc giảng dạy của mình, người giáo viên còn phải hình thành cho mình hàng loạt những năng lực sư phạm khác như năng lực dạy học, năng lực ngôn ngữ, năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp… Trong Đại hội chiến sĩ thi đua toàn Ngành Giáo dục ngày 21-2-1956, Bác đã ân cần căn dặn: “Các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu”(7).Tại buổi nói chuyện chỉnh huấn giáo viên phổ thông toàn miền Bắc, năm 1958, Người đã nhắc lại câu “Giáo bất nghiêm, sư chi đọa” - dạy không nghiêm là do thầy lười nhác. Để nhắc nhở trách nhiệm cao cả, đáng trân trọng của người thầy, Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” (8). Khắc ghi lời Bác dặn, kế thừa truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết sách nhằm phát huy mọi tiềm năng của con người, trong đó có đội ngũ thầy, cô giáo và những người làm công tác quản lý giáo dục. Nguồn lực giáo dục, đào tạo trước hết là nguồn lực con người, trong đó thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nguồn lực quan trọng nhất. Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 11-12-1998 đã ghi rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện có đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”(13). Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, sự nghiệp giáo dục - đào tạo càng trở nên quan trọng. Trước những đòi hỏi đó, vai trò của người thầy càng có ý nghĩa. Sứ mệnh, nhiệm vụ của những nhà giáo hơn lúc nào hết rất nặng nề và người thầy cần phải tạo dựng cho mình những phẩm chất và năng lực nhằm cống nhiến nhiều hơn nữa cho Tổ quốc nói chung, sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói riêng. Để thực hiện được lời dạy cuả Bác, người thầy cần phải đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học, phải luôn tìm tòi, sáng tạo không ngừng để tiếp nối một cách xứng đáng thế hệ những người đi trước, không ngừng rèn luyện, hoàn thành tốt vai trò thiêng liêng đối với xã hội. Đồng thời đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, có phương pháp làm việc khoa học, có ý chí vượt khó và đặc biệt phải có tâm huyết với nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn. Người thầy không thể tự bằng lòng với những kiến thức đã có mà phải nâng cao, vươn xa hơn về nhận thức, tiếp cận tốt hơn với phương pháp giảng dạy tích cực nhằm tạo ra những “sản phẩm” tốt đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của xã hội, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động chính trị lỗi lạc, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời là nhà giáo, nhà văn hoá lớn của thế giới, Người sáng lập, đặt nền móng và chỉ đạo việc xây dựng nền giáo dục mới Việt Nam. Chỉ riêng về giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã là một kho tàng, ở tầm chiến lược và ngày càng ngời sáng qua thực tiễn. Một là: Nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trước hết, phải nói đến tư tưởng giải phóng con người thoát khỏi tăm tối, lạc hậu, đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ.
Đây vừa là mục tiêu, vừa là khát vọng "tột bậc" của Người. Trong mỗi giai đoạn cách mạng, dù ở trong hoàn cảnh nào, Người cũng là chiến sĩ tiên phong đi vào phong trào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập ; giải phóng họ thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân tộc và mỗi người dân đứng lên làm chủ nền văn hoá, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người kế tục và phát triển cao hơn cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ, dân trí của thế hệ những người Việt Nam yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Người đã tố cáo đanh thép chế độ thực dân Pháp trong việc "làm cho dân ngu để trị", "gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát", đòi quyền "tự do học tập" và "thực hành giáo dục toàn dân"(3). Đồng thời, Người đã dày công tìm kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động - nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con người. Trong suốt thời gian lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết". Người chỉ rõ cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục với cách mạng ; giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước. Người khẳng định: "Muốn giữ vững nền độc lập, muốn cho dân mạnh, nước giàu, thì mỗi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ". Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải "đa dạng hoá các loại hình đào tạo, mở trường vừa học, vừa làm để tạo điều kiện cho người lao động, cán bộ, chiến sỹ được đi học". Khi dân trí cao sẽ xuất hiện nhiều nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Người chỉ cho chúng ta con đường đưa đất nước thoát khỏi cảnh yếu hèn - đó là con đường phát triển giáo dục. Người nói : "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và kêu gọi mọi người thi đua học tập để đưa dân tộc ta trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ. Hai là: Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng phương châm giáo dục thiết thực, cụ thể.
Người nói : "Chúng ta phải tẩy rửa những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em một nhà. Nhiệm vụ của các cháu là thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình và xây dựng nước Việt Nam yêu quý của chúng ta". Ngay trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của buổi đầu mới giành được độc lập, giữa lúc kinh tế kiệt quệ, thiên tai, nạn đói hoành hành, thù trong giặc ngoài ra sức chống phá để tiêu diệt cách mạng, Người kêu gọi toàn dân ra sức thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ vô cùng trọng đại và cấp bách là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Nhờ vây, từ chỗ hơn 95% mù chữ, dân ta đã trở thành một dân tộc có văn hoá, khoa học, đủ khả năng giành độc lập, tự do cho đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải "nhận thức đúng tầm quan trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân". Do đó, các cấp uỷ, chính quyền, các ngành các giới, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến phương châm giáo dục mới như : phát huy cao độ dân chủ trong nhà trường để tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình - xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm để phát triển giáo dục. Trong công tác quản lý giáo dục, Người đã chỉ thị "phải đi sâu vào việc điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm. Chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn ; kết hợp chặt chẽ chủ trương chính sách của trung ương với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu và phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương". Phải coi "giáo dục thiếu nhi là một khoa học". Mặc dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn giành thì giờ để chỉ đạo cụ thể, sát sao các phong trào thi đua, như phong trào "dạy tốt, học tốt", đề xuất công tác Trần Quốc Toản, phong trào "kế hoạch nhỏ"... cho các cháu thiếu niên, nhi đồng nhằm tạo nên môi trường xã hội rộng lớn và thuận lợi cho công tác giáo dục. Ba là: Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là phương pháp giáo dục con người toàn diện.
Muốn xây dựng và hoàn thiện con người theo Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là giáo dục và tự giáo dục. Đây là phương pháp tốt nhất để "đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam và làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em". Người nhấn mạnh : "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" và "vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Vì thế, nền giáo dục mới phải thực hiện phương pháp dạy và học mới để đạt được mục tiêu : "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại". "Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng", "học để tin tưởng" và "Học để hành". Tư tưởng này không chỉ phản ánh truyền thống quý báu của dân tộc ta mà còn phản ánh yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài của đất nước trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Phương pháp giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là "phải chú trọng đủ các mặt ; đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất". Đây là những nhiệm vụ giáo dục hết sức cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam mới. Nhà trường phải bảo đảm cho thế hệ trẻ vươn lên làm chủ kho tàng kiến thức văn hóa của nhân loại, trang bị đầy đủ vốn hiểu biết về văn hóa, tri thức khoa học, công nghệ. Thế hệ trẻ cần phải được giáo dục về lý tưởng và đạo đức xã hội chủ nghĩa – hạt nhân của nhân cách người lao động mới. Người căn dặn : Phải có phương pháp giáo dục tốt để giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên. Theo Người : "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Bốn là: Tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra phương hướng cơ bản cho chiến lược con người, chiến lược phát triển giáo dục ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua và cả thời gian sắp tới.
Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng ta hết sức quan tâm đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thời gian qua đã đánh dấu một mốc son mới trong công cuộc chấn hưng giáo dục nước nhà, góp phần giữ vững mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, bắt đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố và tỉnh, trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên. Hoàn thiện thêm một bước hệ thống giáo dục quốc dân, mở rộng mạng lưới trường học đến hầu hết các thôn bản, hiện có hơn 23 triệu người đi học, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Quy mô và cơ sở vật chất giáo dục được phát triển. Hệ thống các trường học dân tộc nội trú tỉnh, huyện được củng cố và mở rộng. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, các trường chuyên nghiệp đang từng bước được tổ chức sắp xếp lại. Hệ thống các trường đào tạo nghề đã được phục hồi và bắt đầu phát triển. Chất lượng giáo dục có chuyển biến bước đầu, hạn chế được một số hiện tượng tiêu cực, nổi cộm trong giáo dục. Thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, từ nay đến năm 2020, toàn Đảng, toàn dân mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo. Thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng - chính trị, nhân cách, đạo đức, lối sống cho người học. Tăng cường phối hợp giữa nhà trường và gia đình, phát huy vai trò giáo dục gia đình. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, tăng cường giáo dục tư duy dáng tạo, tăng năng lực tự học, tự tu dưỡng, tự tạo việc làm. Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, vùng miền. Một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ quốc tế. Hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lớn trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp văn bằng. Phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn, trên cơ sở đảm bảo chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đào tạo với sử dụng. Mở rộng hệ thống trường lớp giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở miền núi, vùng dân tộc ít người, nông thôn. Hoàn thành cơ bản phổ cập trung học cơ sở, củng cố kết quả phổ cập tiểu học, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục xóa mù chữ, ngăn ngừa tái mù chữ, giáo dục cho người lớn. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao. Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập công đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế – xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Có chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội. Ưu tiên phát triển giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Củng cố và tăng cường hệ thống nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc thiêu số ; từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh, đáp ứng yêu cầu đào tạo toàn diện đi đôi với cải tiến chính sách học bổng cho học sinh các trường này. Thực hiện chế độ miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng sâu, vùng xa, học sinh dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ với vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có nhiều khó khăn.
1. 2. 1 Mục đích giáo dục
Đó là một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của học sinh; là con đường làm cho con em chúng ta thành những trò giỏi , con ngoan, bạn tốt, và mai sau là những công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của chế độ chủ nghĩa xã hội.
Với thanh niên , phải giáo dục họ “Luôn luôn nâng cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”(15).
1. 2. 2 Nội dung giáo dục
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cơ bản của giáo dục là phải đào tạo ra những con người xây dựng chủ nghĩa xã hội "vừa hồng vừa chuyên". Đây là một tư tưởng then chốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục.
Người nhấn mạnh, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mỗi cô giáo, thầy giáo phải là những chiến sỹ trên mặt trận đó. Nhiệm vụ của nền giáo dục cách mạng là : "phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân". Giáo dục phải tạo ra được những người lao động mới. Đó là những người có lòng yêu nước nồng nàn, "trung với nước, hiếu với dân", có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ tương lai của đất nước, "những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên". Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của các cô giáo, thầy giáo đối với xã hội. "Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những người anh hùng vô danh". Muốn được như vậy, các cô giáo, thầy giáo, trước hết, phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng rèn luyện chuyên môn, phải là tấm gương trong sáng để học sinh noi theo, phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm, phải thương yêu chăm sóc học sinh như con em ruột thịt của mình, phải thật sự yêu nghề, yêu trường, phải không ngừng học hỏi để tiến bộ mãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người có ích cho Tổ quốc. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng 9 năm 1945, Người viết : "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu". Lời dạy của Người đã đi sâu vào lòng dân, tạo thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho hàng triệu thầy giáo và học sinh thi đua dạy tốt - học tốt. Bức thư Người viết đã trở thành chân lý của thời đại, hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của các nước đi từ lạc hậu lên tiên tiến và hiện đại, từ nông nghiệp đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tóm lại: Nội dung của giáo dục theo tư tưởng của Hồ Chí Minh là giáo dục con người Việt Nam ta cả về đức lẫn tài đó là giáo dục toàn diện, giáo dục thiết thực là học phải thực hành để bắt kịp với cái mới hiện đại. Trong bức thư của người đã gửi gấm chân lý cho thế hệ ta hiện nay là chúng ta phải tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong học tập và vận dụng nó một cách có hiệu quả vào thực tế công việc và cuộc sống của chúng ta góp phần công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1. 2. 3 Phương pháp giáo dục
Ðể thực hiện mục đích giáo dục đào tạo con người Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp bảo đảm sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với đối tượng giáo dục.
Phương pháp học tập là vấn đề rất quan trọng. Ðể đạt đến mục đích, ở bất cứ lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng cần phải có phương pháp, cách thức tiến hành hoạt động. Trong học tập, nếu có phương pháp khoa học thì người học sẽ tiếp cận và thu nhận kiến thức một cách hiệu quả. Các phương pháp giáo dục như: học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phương pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội..., theo Hồ Chí Minh, đều nhằm mục đích nâng cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Những phương pháp đó mang tính hệ thống, khoa học, nhưng lại rất cụ thể, thiết thực, luôn gắn với thực tiễn cuộc sống. Ðặc biệt, Người nhấn mạnh phương pháp "Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy". Bởi vậy, Người căn dặn phải luôn gắn việc dạy học với thực tế của cuộc sống, với đời sống của nhân dân; tránh kiểu học vẹt, lối dạy sách vở.
Đó là những tinh hoa trong tư tưởng của người đối với phương pháp giáo dục mà người đã tập trung và rút ra từ lòng thương yêu nhân loại, thương yêu con người và trong tư tưởng giải phóng dân tộc, chống lại giặc dốt.
Phương pháp giáo dục – dạy học phải trả lời câu hỏi dạy học, giáo dục như thế nào? Phương pháp là hoạt động sáng tạo thường xuyên của Thầy, Cô giáo và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học – giáo dục. Cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến một số phương pháp sau:
Một là: Phải biết dạy từ dể đến khó, biết kết hợp học tập với vui chơi
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện, phải ra sức làm nhưng không được vội vã, làm phải có kế hoạch, có từng bước. Giáo dục thế hệ trẻ thì việc gì cũng thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp đến cao. Người viết:
Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, …. Kết hợp với thực tiễn nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.
Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đề xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”
Để đảm bảo tính vừa sức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quá trình giảng dạy phải căn cứ vào đặc điểm của đối tượng vì trình độ người học không đều nhau; do đó, cần có tài liệu thích hợp với từng đối tượng, nếu tài liệu không thích hợp thì học không có lợi ích gì. Đây là vấn đề mà trong những năm gần đây chúng ta rất chú trọng, bởi vì không phải chúng ta dạy được cái gì mà cần phải dạy những cái gì mà học sinh cần, muốn vậy thì phải căn cứ vào nhu cầu người học để từ đó có chương trình dạy phù hợp với từng đối tượng, tránh tình trạng học sinh thì “ngồi nhằm lớp”, thầy dạy những cái học sinh không cần…
Về cách dạy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe các cháu. Người dạy thiếu nhi: tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của minh. Học và chơi là hai nhu cầu của tuổi trẻ. Giáo dục thế hệ trẻ phải thực hành phương pháp đáp ứng với những nhu cầu đó thì giáo dục mới hiệu quả. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho chúng học”, “ Thanh niên phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần coa vui chơi, Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên… Trong vui chơi cũng có giáo dục. Cần có những thú vui chơi văn hóa, thể dục có tính chất tập thể và quần chúng”.
Hai là: Dạy học nhằm phát triển trí tuệ, tính độc lập sáng tạo và tích cực của người học
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần bày tỏ quan điểm chống lại cách dạy, cách học không hướng vào sự phát triển của người học, không kích thích sự suy nghĩ trong học tập. Với người dạy, Người đề nghị: phải tuyệt đối tránh nhồi sọ; với người học, Người khuyên: không nên học từng câu, từng chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc cần phải tránh là thiếu sự chủ động và độc lập, trong học tập “…tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều”.
Về việc học, Người khuyên “ phải đào sâu suy nghĩ” , phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ, suy nghĩ chín chắn kỹ càng, mạnh dạn đề xuất vấn đề và thảo luận cho thông suốt vỡ lẽ. Người căn dặn: phải thường xuyên đặt câu hỏi “vì sao?” đối với bất cứ điều gì
Đây là một trong những phương pháp được sử dụng khá phổ biến trong giáo dục hiện đại, điều đó chứng tỏ tầm nhìn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ với những vấn đề cách mạng to lớn mà ngay cả trong việc học, làm thế nào để học tập có hiệu quả cũng được Người đặc biệt quan tâm. Việc sư dụng tốt phương pháp này sẽ tránh được lối học thụ động, học vẹt, học một chiều theo kiểu thầy dạy trò chép như đang diễn ra tương đối phổ biến trong nền giáo dục Việt Nam hiện nay và đông thời với nó có thể khơi dậy, phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình học.
Ba là: Giáo dục phải hướng đến mối quan hệ nhân ái – dân chủ thầy trò
Đây là phương pháp mạng đậm dấu ấn và phong cách Hồ Chí Minh, là phương pháp hướng dẫn, động viên, thuyết phục bằng tình cảm. Người rất chú trọng đến phương pháp này, nó được thấm nhuần bằng một tình cảm chân thành dựa trên sự yêu thương, tôn trọng con người và ứng xử với con người một cách tinh tế.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn thực hiện phương pháp này tốt, nhà giáo và người tổ chức phải có khả năng hiểu biết và nắm vững đặc điểm, tâm lý của đối tượng giáo dục, dạy học. Người quan niệm: muốn làm bạn phải hiểu nhau. Nếu không hiểu nhau không thành bạn. Người tuyên truyền không điều tra, không phân tích, không nghiên cứu, không hiểu biết quần chúng chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì nói nấy nhất định thất bại. Kinh nghiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy: muốn dạy học, giáo dục học sinh thành công thì điều trước tiên đối với người dạy là phải tạo được mối quan hệ đó “phải yêu thương học sinh như những người ruột thịt của mình”.
Trong quá trình dạy học cần phải dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò phải cùng nhau bàn bạc, thầy phải quý trò phải tôn trọng thầy. Có như vậy mới có thể lắng nghe được mọi ý kiến và tâm tư nguyện vọng của trò, còn trò có thể nói hết những suy nghĩ của mình với thầy. Tinh thần lại càng thêm thân thầy và trò ngày càng gắn bó với nhau hơn theo đúng nghĩa “ cô giáo như mẹ hiền”.
Bốn là: Giáo dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu gương
Phương pháp này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khai thác từ truyền thống giáo dục của dân tộc và phát triển lên theo yêu cầu của cách mạng, là một biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, khi giáo dục thế hệ trẻ thì tri thức phải dễ hiểu, dễ nhớ và học mau. Ngoài tri thức phải có đạo đức cách mạng. Vì vậy, thầy giáo phải làm kiễu mẫu cho học trò. Làm được như vậy mới hoàn thành nhiệm vụ giáo dục. Người viết: “ dạy các cháu thì nói với các cháu chỉ một phần, cái chính là phải làm cho các cháu nhìn thấy, cho nên những tấm gương thực tế là rất quan trọng. Muốn dạy trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú phải là người tốt”.
Đối với học trò, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết học ở các thầy giáo đồng thời phải biết học ở nhân dân, học theo những thanh niên gương mẫu trong quân đội, dân công và trong các ngành hoạt động khác.
Ngoài những phương pháp nêu trên, trong các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu lên một số phương pháp khác như: thực hiện giáo dục phải gắn với thi đua, cách mạng gắn liền với thi đua: “Thi đua là yêu nước. Yêu nước thì phải thi đua”. “Đồng bào ta đang có phong trào thi đua sôi nổi: “ Đại phong”, “Duyên Hải”, “Ba nhất”, “Thành Công”. Vậy, các nhà trường cũng nên phát động một phong trào thi đua “2 tốt”- “tức là dạy tốt, học thật tốt”. Với học sinh, Người nói: “Các cháu nên thi đua, thi đua học tập, thi đua trong mọi việc để trở nên những nhi đồng có tổ chức, có kỷ luật, có sáng kiến, có lực lượng”[Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, 2006].
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
2. 1 Quá trình phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới
[Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương , 2002].
Người sinh ra khi nước ta đã diễn ra nhiều cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược, nhưng lần lượt bị thất bại; đất nước ta vẫn bị chìm đắm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân và phong kiến thối nát. Thấy rõ cảnh đất nước lầm than, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sục sôi nhiệt huyết và rất nhạy cảm với thời cuộc đã quyết chí ra đi tìm đường giải phóng dân tộc, giải phóng đồng bào [Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương , 2002].
Xuất phát từ tấm lòng yêu thương con người, yêu thương nhân loại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà lòng yêu thương vô hạn của Bác đối với nhân dân được thể hiện nổi bật ở sự gắn bó và tôn trọng nhân dân, luôn tin tưởng vào sức mạnh vô địch của nhân dân. Đối với Người, cách mạng trước hết là sự nghiệp của nhân dân. Người đã tiến hành không mệt mỏi công tác tuyên truyền và giáo dục cho mọi người tinh thần dân chủ trong sinh hoạt chính trị, thức tỉnh ý thức toàn dân tộc trước sự nghiệp chung, phát huy cao nhất sức mạnh của trí tuệ, tài năng và nghị lực của mọi người [Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương , 2002].
Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng của thời đại mà hình thành và phát triển nên tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam.
2. 2 Ảnh hưởng tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh đến vấn đề giáo dục đào tạo của con người Việt Nam trong lịch sử
2. 2. 1 Những ảnh hưởng tích cực
2. 2. 1. 1 Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo người Việt Nam
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả đó của Người, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là:
"Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ. Và mới đây, tại Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm "học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội.
2. 2. 1. 2 Trong lĩnh vực giáo dục gia đình Việt Nam
Trong bài nói chuyện tại Hội nghị dự thảo Luật hôn nhân và gia đình, ngày 10-10-1959. Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu:
“ Xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Gia đình tốt thì xã hội mới tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình”.
Thật vậy. Gia đình là hạt nhân của xã hội. Gia đình có chức năng toàn diện, nuôi dưỡng, giáo dục con em, xây dựng và bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn để chúng trở thành những công dân góp phần xây dựng đất nước. Trong việc giáo dục con em thì việc tiếp thu và phát huy những giá trị truyền thống lâu đời của gia đình là một việc vô cùng quan trọng. Gia đình có tốt thì xã hội mới tốt, đó là một chân lý không thể phủ nhận. Chúng ta đã từng thấy gia đình của Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung là một gia đình mẫu mực trong gia đình Việt Nam truyền thống, một gia đình hòa thuận giàu lòng thương người. Đó là một gia đình trí thức Nho giáo. Thân phụ của người – cụ Nguyễn Sinh Sắc là người có học, thi đậu Phó bảng, mấy năm sau mới được làm quan rồi lại từ quan vì quan trường nô lệ (làm quan trong cảnh đất nước bị nô lệ chẳng khác nào nô lệ). Cụ sống bằng nghề dạy học, bốc thuốc cứu người. Thân mẫu của người cụ Hoàng Thị Loan, một phụ nữ hiền thục, chuyên quay xa vệt vải, chăm sóc chồng con và mất sớm tại Huế khi Hồ Chí Minh mới 10 tuổi. Anh trai của người – ông Nguyễn Sinh Khiêm không vợ con, chị gái của người – bà Nguyễn Thị Thanh không chồng con, cả Anh và Chị của người đều hoạt động yêu nước và bị tù đày mọi thành viên trong gia đình đều giàu lòng thương người và sống liêm khiết.
Từ một gia đình tốt như thế nên sản sinh ra Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài cho đất nước ta mà mọi người trên thế giới đều biết đến với lòng thương yêu, tôn kính, người là bậc vĩ nhân của thế giới, là một nhà hiền triết mà tư tưởng của người là kết tinh của tinh hoa văn hóa nhân loại cái gốc của tư tưởng ấy bắt nguồn từ triết học Mác- LêNin.
Trong lịch sử phát triển, gia đình vừa là một đơn vị kinh tế, vừa là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng, giáo dục con người, duy trì và phát triển ở họ những quan hệ tình cảm đặc biệt và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự hình thành những chuẩn mực và định hướng giá trị tốt đẹp của gia đình sẽ không chỉ củng cố các mối quan hệ gia đình mà còn kiến tạo một môi trường xã hội thuận lợi cho mỗi cá nhân được phát triển hài hòa và toàn diện. Về phương diện này, gia đình là cơ sở đầu tiên cho việc tái sản xuất ra con người và xã hội. Gia đình là nơi và là nguồn cung cấp lực lượng lao động cho xã hội để tham gia quá trình vận hành của xã hội từ sản xuất, phân phối, đến trao đổi và tiêu dùng. Rõ ràng gia đình là môi trường đầu tiên quan trọng nhất để con người hoàn thiện mình trước khi tham gia vào xã hội. Vì vậy, những giá trị, chuẩn mực, đạo đức trong gia đình cần được phân định và chọn lựa. Con người hiện đại có nhiều thuận lợi hơn cha ông trong việc xây dựng, học tập các giá trị, chuẩn mực, đạo đức trong gia đình. Một mặt, họ được kế thừa các giá trị truyền thống. Mặt khác, họ tự mình xây dựng các giá trị mới dựa trên sự phát triển của kinh tế, trí tuệ, khoa học, đó là các giá trị hiện đại.
Sự kết hợp hài hòa hai yếu tố này sẽ hướng tới xây dựng gia đình văn minh mà trong đó cuộc sống của con người ngày càng hạnh phúc hơn; sự ứng xử giữa người với người ngày càng nhân hậu và công bằng hơn.
2. 3 Kế thừa, phát huy những giá trị tích cực trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đào tạo con người Việt Nam hiện nay
2. 3. 1 Thực trạng tình hình giáo dục của nước ta hiện nay
2. 3. 1. 1 Thành tựu của giáo dục Việt Nam hiện nay
Thực hiện Nghị quyết các Đại hội VI, VII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương khóa VII, trong những năm gần đây, giáo dục – đào tạo có những mặt tiến bộ:
Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp. Hầu hết các xã trong cả nước, kể cả các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đã có trường, lớp tiểu học. Phần lớn các xã vùng đồng bằng có trường trung học cơ sở. hầu hết các huyện có trường trung học phổ thông. Các tỉnh và nhiều huyện đông đồng bào dân tộc đã có hệ thống trường dân tộc nội trú.
Giáo dục sau đại học đã đào tạo được số lượng đáng kể cán bộ có trình độ cao mà trước đây chủ yếu phải dựa vào nước ngoài. Giáo dục – đào tạo đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, đào tạo đội ngũ lao động có trình độ học vấn tiểu học, trung học và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng. Trong nông nghiệp, công nghiệp và một số ngành khác, đội ngũ cán bộ và công nhân nước ta có khả năng nắm bắt và ứng dụng nhanh chóng một số công nghệ mới.
Chất lượng giáo dục đào tạo có tiến bộ bước đầu trên một số mặt về các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật, ở bậc đại học hệ tập trung. Số học sinh khá giỏi, số học sinh đạt giải trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế ngày càng tăng.
Trong giáo dục - đào tạo đã xuất hiện một số nhân tố mới. Ở nhiều nơi đã hình thành phong trào học tập sôi nổi của cán bộ và nhân dân, nhất là thanh niên. Các loại hình trường lớp, từ phổ thông đến đại học, đa dạng hơn, tạo thêm cơ hội học tập cho nhân dân. Đã huy động được thêm các nguồn lực ngoài ngân sách Nhà nước để phát triển giáo dục – đào tạo. Các gia đình, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội đã chăm lo cho giáo dục nhiều hơn trước. Các phương tiện thông tin đại chúng đã xây dựng các chuyên mục phục vụ giáo dục – đào tạo. Hợp tác quốc tế về giáo dục – đào tạo bước đầu được mở rộng…
Sở dĩ có những thành tựu nêu trên là do:
Đường lối giáo dục – đào tạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chính sách đổi mới, trực tiếp là chính sách đổi mới trong giáo dục – đào tạo, thể hiện tập trung Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa VII).
Truyền thống hiếu học của dân tộc ta được phát huy, nhu cầu học tập của dân không ngừng tăng lên. Nhân dân đóng góp rất nhiều công, của xây dựng trường lớp và chăm lo sự nghiệp giáo dục.
Đội ngũ giáo viên, cán bộ giáo dục và số đông học sinh, sinh viên có những cố gắng rất lớn; đại bộ phận thầy, cô giáo có tâm huyết, gắn bó với nghề. Các giáo viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nhận thức rõ hơn về vai trò của giáo dục đối với tương lai của đất nước, đã khắc phục nhiều khó khăn, tích cực tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục.
Những thành quả phát triển kinh tế, ổn định chính trị, nâng cao đời sống nhân dân qua mười năm đổi mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục. Vì thế mà giáo dục của chúng ta có những thành tựu đáng khích lệ và sẽ không ngừng phát triển nâng cao trình độ người học và nâng cao dân trí cho con người Việt Nam.
2. 3. 1. 2 Những hạn chế của giáo dục Việt Nam hiện nay
Giáo dục – đào tạo nước ta còn yếu kém bất cập cả về quy mô, cơ cấu, và nhất là về chất lượng và hiệu quả; chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi lớn và ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu xã hội và cơ cấu vùng của đội ngũ sinh viên, học sinh các trường đại học và chuyên nghiệp chưa hợp lý.
Mấy năm gần đây ở một số ngành rất cần thiết cho sự phát triển đất nước lại có quá ít học sinh đăng ký theo học. Giáo dục chuyên nghệp, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật có lúc suy giảm mạnh, mất cân đối lớn về cơ cấu trình độ trong đội ngũ lao động ở nhiều ngành sản xuất. Quy mô đào tạo nghề hiện nay vẫn quá nhỏ bé, trình độ, thiết bị đào tạo lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đáng quan tâm nhất là chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo còn thấp. Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, phương pháp tư duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa số học sinh còn yếu. Ở nhiều học sinh ra trường, khả năng vận dụng kiến thức vào sản xuất và đời sống còn hạn chế. Số đông sinh viên tốt nghiệp chưa có khả năng thích ứng với những biến đổi nhanh chóng trong ngành nghề và công nghệ. Đặc biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Đào tạo chưa gắn với sử dụng.
Một số sinh viên tốt nghiệp không chịu đi làm việc ở những vùng khó nhăn, trong khi ở các thành phố còn nhiều sinh viên tốt nghiệp không có việc làm hoặc làm không đúng nghề đã được đào tạo.
Những biểu hiện tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục đang có chiều hướng gia tăng: dạy thêm học thêm tràn lan, tốn nhiều thời gian và tiền bạc của học sinh, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển toàn diện của học sinh và quan hệ thầy trò. Ở một số trường có hiện tượng mua bán điểm và mua bán bằng, nhiều trường đã tăng quy mô tuyển sinh vượt quá khả năng đào tạo, mở quá nhiều lớp tại chức ở địa phương mà không thực hiện đúng quy chế, đúng chương trình, không đảm bảo chất lượng đào tạo. Tệ nạn xã hội kể cả nạn nghiện hút, tiêm chích ma túy, đang thâm nhập một số trường học.
Chưa thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục. Con em gia đình nghèo gặp nhiều khó khăn khi muốn đi học lên cao. Ở các trường đại học tỉ lệ sinh viên là con em nhà nghèo, con em xuất thân công nông, nhất là nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số giảm dần.
Ở bậc đại học tỉ lệ giáo viên có trình độ sau đại học còn quá thấp và trong những năm trước mắt sẽ có tình trạng hụt hẫng, thiếu người thay thế cho cán bọ có trình độ cao sắp nghỉ hưu. Một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục thiếu gương mẫu về đạo đức và lối sống.
2. 3. 1. 3 Nguyên nhân của những hạn chế
Công tác quản lý giáo dục – đào tạo có những yếu kém, bất cập. Mấy năm gần đây, có nhiều chủ trương đổi mới về giáo dục, nhưng một số chủ trương chưa được nghiên cứu, chuẩn bị chu đáo trước khi áp dụng, tổ chức thực hiện lại có nhiều thiếu sót. Mở rộng, quy mô giáo dục – đào tạo và phát triển giáo dục – đào tạo nhưng có nhiều thiếu sót trong quản lý chương trình, nội dung và chất lượng. Công tác thanh tra giáo dục còn quá yếu, thiếu những biện pháp hữu hiệu để kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo, đặc biệt đối với các hình thức trường “mở”, bán công, dân lập, tư thục và không tập trung. Chậm phát hiện và thiếu nghiêm túc trong xử lý và khắc phục các biểu hiện tiêu cực trong ngành giáo dục – đào tạo.
Cơ chế quản lý giáo dục – đào tạo chưa hợp lý, có tình trạng vừa ôm đồm sự vụ, vừa buông lỏng chức năng quản lý nhà nước; chưa thực hiện tốt sự quản lý thống nhất, giữ vững kỷ cương trong công tác giáo dục, đồng thời chưa phát huy quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương và nhà trường.
Nội dung giáo dục – đào tạo vừa thừa vừa thiếu, nhiều thành phần chưa gắn với cuộc sống. Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo đức và nhân cách cũng như việc giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ bị xem nhẹ. Hiệu quả giảng dạy các môn khoa học Mác – LêNin bị hạn chế. Công tác giáo dục hướng nghiệp ở bậc phổ thông chưa được chú ý đúng mức.
Phương pháp giáo dục – đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học.
Giáo dục – đào tạo chưa kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất, nhà trường chưa gắn với gia đình và xã hội. Hoạt động giáo dục – đào tạo chưa gắn mật thiết với các hoạt động sản xuất và nghiên cứu khoa học. Gia đình và tập thể, cộng đồng xã hội chưa phát huy vai trò quan trọng trong giáo dục, chưa phối hợp chặt chẽ với nhà trường giáo dục thế hệ trẻ, nhất là chính trị, đạo đức, đấu tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội và văn hóa phẩm đồi trụy cùng ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với trường học.
Chính phủ và các cơ quan nhà nước chưa có những quyết định đủ mạnh về chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện, để thể hiện đầy đủ quan điểm xem giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Các chính sách đã ban hành chưa đủ khuyến khích nghề dạy học và những giáo viên đến dạy ở vùng khó khăn, chưa động viên được những giáo viên dạy giỏi và giảng viên có trình độ cao. Tiền lương giáo viên chưa thỏa đáng. Hệ thống các trường sư phạm tuy đã được quan tâm đầu tư nhiều hơn trước, nhưng vẫn chưa đủ sức làm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Thiếu chính sách thu hút học sinh tốt, khá, giỏi vào học sư phạm. Tỉ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục còn thấp; cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học của các trường nhìn chung chậm được cải thiện.
Không ít cấp ủy Đảng và cấp chính quyền nhận thức về vai trò của giáo dục đối với tương lai đất nước chưa đủ sâu sắc, chưa thấy hết trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, tuy đã chú ý đầu tư xây dựng trường sở, tăng cường trang bị phương tiện dạy và học cho các trường, tăng thu nhập cho các giáo viên… nhưng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo nội dung giáo dục, công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong giáo viên và học sinh, công tác xây dựng Đảng trong nhà trường; chưa động viên được nhân viên tham gia sự nghiệp giáo dục – đào tạo. Thậm chí một số nơi còn cắt xén kinh phí của giáo dục – đào tạo.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan cũng cần thấy những nguyên nhân khách quan như tác động của khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm trước, tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường.
Hiện nay sự nghiệp giáo dục – đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phaỉ phát triển nhanh quy mô giáo dục – đào tạo, vừa phải phát triển nhanh quy mô giáo dục – đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo , trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn hạn chế. Đó là mâu thuẫn trong quá trình phát triển. Những thiếu sót chủ quan, nhất là những yếu kém về quản lý đã làm cho những mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt. Định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. 3. 1. 4 Các giải pháp khắc phục những hạn chế
Từ các hạn chế kể trên chúng ta có những giải pháp để khắc phục hạn chế đó:
Thứ nhất: Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo
Đầu tư cho giáo dục – đào tạo lấy từ nguồn chi thường xuyên và nguồn chi phát triển trong ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực cho giáo dục – đào tạo và phải được sử dụng tập trung, ưu tiên cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi dưỡng nhân tài, trợ giúp cho giáo viên ở những vùng khó khăn và diện chính sách.
Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách như học pjis, nghiên cứu ban hành chính sách đóng học phí đào tạo từ phía các cơ sở sử dụng lao động, huy động một phần lao động công ích để xây dựng trường sở. Khuyến khích các đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội xây dựng quỹ khuyến học. Lập quỹ giáo dục quốc gia. Phát hành xổ số kiến thiết để xây dựng trường học.
Cho phép các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng với ngành nghề đào tạo.
Xây dựng và công bố công khai quy định về học phí và các khoản đóng góp theo nguyên tắc không lưu bình quân, miễn giảm cho người nghèo và người thuộc diện chính sách. Căn cứ vào nhu cầu phát triển giáo dục, tình hình kinh tế và khả năng đóng góp của các tầng lớp nhân dân địa phương, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định mức học phí cụ thể trong khung học phí do Chính phủ quy định cho từng khu vực và các khoản phải đóng góp ổn định khác. Không thu học phí ở bậc tiểu học trong các trường công lập.
Có chính sách ưu tiên, ưu đãi với việc xuất bản sách giáo khoa, tài liệu dạy học, sản xuất và cung ứng máy móc, đồ dùng dạy học, nhập khẩu sách, báo, tài liệu, thiết bị dạy học mà trong nước chưa xản xuất được để phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của nhà trường.
Các ngân hàng lập quỹ tín dụng đào tạo cho con em các gia đình có thu nhập thấp, trước hết ở nông thôn và các vùng khó khăn, cho vay với lãi xuất ưu đãi, để có điều kiện học tập ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Nhà nước quy định cơ chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công tác đào tạo và đào tạo lại. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước giúp đỡ phát triển giáo dục – đào tạo Việt Nam. Phần tài trợ cho giáo dục – đào tạo dưới mọi hình thức sẽ được khấu trừ trước khi tính thuế lợi tức, thuế thu nhập.
Dành ngân sách nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển.
Khuyến khích đi học nước ngoài bằng con đường tự túc hướng vào những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài có khả năng về nước tham gia giảng dạy và đào tạo, mở trường học, hoặc hợp tác với các cơ sở đào tạo trong nước; các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể vào Việt Nam mở các trung tâm đào tạo quốc tế, tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ tài chính theo quy định của Nhà nước. Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục – đào tạo.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tích cực góp sức phát triển giáo dục – đào tạo, kết hợp với giáo dục xã hội, giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Hệ thống phát thanh, truyền hình dành thời lượng thích đáng cho giáo dục. Các ngành văn hóa, nghệ thuật, thông tấn, báo chí có trách nhiệm cung cấp những sản phẩm tinh thần coa nội dung tốt cho việc giáo dục thế hệ trẻ.
Không để các sản phẩm văn hóa tư tưởng độc hại, các tệ nạn xã hội thâm nhập trường học. Định kỳ tổ chức hội nghị giáo dục, khen thưởng cá nhân và đơn vị có thành tích. Thể chế hóa chủ trương xã hội hóa giáo dục đã ghi trong Nghị quyết Đại hội VIII.
Tiếp tục phát triển các trường dân lập ở tất cả các bậc học. Từng bước phát triển vững chắc các trường lớp tư thục ở giáo dục mầm non, phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học. Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn và quản lý thống nhất chương trình, nội dung chất lượng giảng dạy và học tập ở các trường dân lập và tư thục. Hiệu trưởng và giáo viên của các tổ chức Đảng và toàn thể như trường công lập. Khung học phí của các trường dân lập, tư thục do Nhà nước quy định.
Thứ hai: Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên phải có đủ đức, tài. Do đó phải:
Củng cố và tập trung đầu tư nâng cấp các trường sư phạm. Xây dựng một số trường đại học sư phạm trọng điểm để vừa đào tạo giáo viên coa chất lượng cao vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến.
Không thu học phí và thực hiện chế độ ưu đãi đối với học sinh tốt, khá, giỏi, vào ngành sư phạm. Tăng chỉ tiêu đào tạo các trường sư phạm, đồng thời giao nhiệm vụ đào tạo giáo viên một số môn học phù hợp cho các trường đại học và cao đẳng khác.
Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý để khắc phục nhanh chóng tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.
Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lý để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.
Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên. Ở bậc đại học cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng trong và ngoài nước các cán bộ phụ trách các bộ khoa học và giảng viên trẻ kế cận, để khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ. Không bố trí người kém phẩm chất, đạo đức làm giáo viên, kể cả giáo viên hợp đồng.
Lương giáo viên được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chánh sự nghiệp và có thêm chế độ phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng do Chính phủ quy định. Có chế độ ưu đãi và quy định hợp lý tuổi nghỉ hưu đối với giáo viên cũng như các trí thức khác có trình độ cao.
Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo. Trọng dụng người tài, khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên say mê học tập và tự tu dưỡng vì tiền đồ bản thân và tương lai đất nước.
Thứ ba: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo và đào tạo và tăng cường cơ sở vật chất các trường học
Rà soát lại và đổi mới một bước sách giáo khoa, loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ của khoa học, công nghệ, tăng nội dung khoa học, công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở bậc học phổ thông, kỹ năng hành nghề ở khối đào tạo.
Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng – đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – LêNin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học. Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc, địa lý và văn hóa Việt Nam. Soát xét lại nội dung sách giáo khoa các môn khoa học xã hội và nhân dân, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài một cách có chọn lọc, xây dựng các môn khoa học kinh tế, quản lý, luật pháp phù hợp với điều kiện nước ta và quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa – thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên.
Chấm dứt tình trạng lớp học ba ca. Bảo đảm diện tích đất đai và sân chơi, bãi tập cho các trường theo quy định của Nhà nước. Tất cả các trường phải có công trình vệ sinh hợp quy cách. Trong quy hoạch khu dân cư mới, khu công nghiệp tập trung phải có địa điểm trường học, nơi sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao cho thanh niên, thiếu niên. Ban hành chuẩn quốc gia về trường học. Tất cả các trường phổ thông đều có tủ sách, thư viện và các trang thiết bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình. Sớm dứt tình trạng “dạy chạy”.
Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp và đại học. Xây dựng thêm và quản lý tốt các ký túc xá của học sinh, sinh viên. Xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm và trạm sản xuất thử ở trình độ hiện đại phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tham gia sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Bổ sung thường xuyên sách và tạp chí chuyên ngành để các trường đại học có điều kiện tiếp cận những thành tựu mới của khoa học và công nghệ.
Thứ tư: Đổi mới công tác quản lý giáo dục
Tăng cường công tác dự báo và kế hoạch sự phát triển giáo dục. Đưa giáo dục vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương. Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay. Gắn đào tạo với sử dụng. Đối với miền núi và các vùng khó khăn, các lĩnh vực và ngành nghề cần thiết tiếp tục thực hiện chính sách cử tuyển để đào tạo theo địa chỉ. Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục – đào tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm. Khuyến khích thành lập các tổ chức thông tin tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh chọn ngành nghề và tìm việc làm sau khi tốt nghiệp. Ban hành chế độ nghĩa vụ công tác sau khi tốt nghiệp các trường.
Quy định lại chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý giáo dục – đào tạo theo hướng tập trung làm tốt chức năng quản lý Nhà nước, xây dựng, hoàn thiện các chính sách, cơ chế về giáo dục – đào tạo, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện chương trình và chất lượng. Sớm ban hành Luật Giáo dục và các văn bản dưới luật (điều lệ các loại trường, trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý giáo dục – đào tạo, quy định hệ thống chuẩn kiến thức…). Nhanh chóng cải tiến các hình thức thi và đánh giá. Sớm có kết luận về một số chủ trương như phân ban ở bậc phổ thông trung học… Trong lúc chưa có kết luận, không mở rộng các chủ trương đó. Không tổ chức lớp chọn ở các cấp học. Không tổ chức trường chuyên ở tiểu học và trung học và trung học cơ sở, trừ các trường năng khiếu về nghệ thuật và thể thao.
Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý giáo dục – đào tạo. Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục, tăng cường cán bộ thanh tra, tập trung vào thanh tra, tập trung vào thanh tra chuyên môn.
Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và viện nghiên cứu để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, tận dụng tối ưu năng lực của đội ngũ và cơ sở vật chất hiện có. Rút kinh nghiệm việc tổ chức các đại học quốc gia và đại học khu vực, làm tốt việc xây dựng và uy tín cao. Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống. Hết sức quan tâm quản lý tốt nội dụng và chất lượng đào tạo của các đại học mở, đại học dân lập và các loại hình không chính quy.
Coi trọng hơn nữa công tác nghiên cứu khoa học giáo dục, nhằm giải đáp những vấn đề lý luận và thực tiễn trong giáo dục và phổ biến các tri thức khoa học giáo dục thường thức đến các gia đình. Các chủ trương, chính sách về giáo dục, những đổi mới về nội dung, quy trình, phương pháp giáo dục, đánh giá, thi… đều phải dưa trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng và trải qua thực nghiệm, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và đưa vào nhà trường theo đúng quy định.
Thành lập Hội đồng quốc gia giáo dục với nhiệm vụ cấp bách trước mắt là giúp Chính phủ tổng kết công cuộc đổi mơi về giáo dục và sọan thảo chiến lược giáo dục – đào tạo.
Phân cấp cho ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ưởng quản lý toàn diện giáo dục mầm, giáo dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, có thể cả một số trường cao đẳng. Phát triển các trường lớp đào tạo cán bộ và công nhân chuyên ngành ở các tổng công ty, các doanh nghiệp lớn. Tổ chức thí điểm mô hình gắn đào tạo với nghiên cứu triển khai trong một số doanh nghiệp lớn. Định rõ trách nhiệm, tăng thêm quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học.
Tiếp tục đổi mới và mở rộng quan hệ trao đổi và hợp tác giáo dục – đào tạo với nước ngoài.
2. 3. 2 Những nội dung hợp lý trong tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh cần kế thừa, phát triển trong sự nghiệp đào tạo ở nước ta hiện nay
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cơ bản của giáo dục là phải đào tạo ra những con người xây dựng chủ nghĩa xã hội "vừa hồng vừa chuyên". Đây là một tư tưởng then chốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục. Người nhấn mạnh, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mỗi cô giáo, thầy giáo phải là những chiến sỹ trên mặt trận đó. Nhiệm vụ của nền giáo dục cách mạng là : "phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân".
Giáo dục phải tạo ra được những người lao động mới. Đó là những người có lòng yêu nước nồng nàn, "trung với nước, hiếu với dân", có đạo đức trong sáng, có chí khí hăng hái vươn lên, không sợ hy sinh gian khổ, có tinh thần gan dạ, dũng cảm, khiêm tốn, thật thà, cần cù, tiết kiệm, trong sạch, giản dị, có tri thức và sức khoẻ để trở thành những người chủ tương lai của đất nước, "những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên". Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của các cô giáo, thầy giáo đối với xã hội. "Những người thầy giáo tốt là những người vẻ vang nhất, là những người anh hùng vô danh". Muốn được như vậy, các cô giáo, thầy giáo, trước hết, phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng rèn luyện chuyên môn, phải là tấm gương trong sáng để học sinh noi theo, phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm, phải thương yêu chăm sóc học sinh như con em ruột thịt của mình, phải thật sự yêu nghề, yêu trường, phải không ngừng học hỏi để tiến bộ mãi. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh không ngừng cố gắng học tập và rèn luyện tốt để mai sau trở thành những người có ích cho Tổ quốc. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường tháng 9 năm 1945, Người viết : "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu".
Lời dạy của Người đã đi sâu vào lòng dân, tạo thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho hàng triệu thầy giáo và học sinh thi đua dạy tốt - học tốt. Bức thư Người viết đã trở thành chân lý của thời đại, hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của các nước đi từ lạc hậu lên tiên tiến và hiện đại, từ nông nghiệp đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
B. KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có công đào tạo nên nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, những lãnh tụ xuất sắc cho Ðảng, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Không chỉ vậy, chính Người đã khai sinh và đặt nền móng cho nền giáo dục và đào tạo mới của Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu sự nghiệp giáo dục của mình chính là từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành, dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết), Già Thu ở Pác Bó, đến những năm tháng hoạt động ở Pháp với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Thầu Chín ở Xiêm (Thái-lan), Lý Thụy ở Trung Quốc... và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Qua tất cả những năm tháng đó, Người đã tổ chức và trực tiếp giảng dạy nhiều lớp huấn luyện chính trị, văn hóa và quân sự cho bao lớp Cán bộ. Người đã có công đào tạo nên nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, những lãnh tụ xuất sắc cho Ðảng, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Không chỉ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh và đặt nền móng cho nền giáo dục mới của Việt Nam. Ðó là nền giáo dục mang tính dân tộc, tính khoa học, tính dân chủ và đại chúng; bảo đảm cho mọi người đều được đi học, ai cũng được học hành, có quyền bình đẳng về giáo dục; đảm bảo cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con người.
Ngày nay, công tác giáo dục, đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người vẫn là một nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục thế hệ trẻ nói riêng đang đứng trước những điều kiện thuận lợi mới và những thách thức lớn. Vì thế cần phải tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục, để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ra cho đất nước những con người “Vừa hồng vừa chuyên”. Những phương pháp giáo dục con người toàn diện, phương châm giáo dục thiết thực, cụ thể của Thầy Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo con người Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua vẫn còn nguyên giá trị, vẫn tỏa sáng tính cách mạng, tính nhân văn và tính dân tộc sâu sắc. Đẩy mạnh và phát triển toàn diện sự nghiệp giáo dục – đào tạo trong công cuộc đổi mới hôm nay là thực hiện tư tưởng Người, nhanh chóng đưa nước ta "sánh vai với các cường quốc năm châu".
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1). Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương (2002). Chủ tịch Hồ Chí Minh tiểu sử và sự nghiệp, NXB Chính trị Quốc gia.
(2). Nguyễn Duy Bắc (2011). Văn hóa giáo dục Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Thời đại.
(3). Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. tr.220
(4). Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H. tr.501
(5). Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG H.tr.329-330
(6). Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. tr.46
(7). Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H. tr.126-127
(8). Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H. tr.222
(9). Lê Thị Ngần (2009). Giá trị tư tưởng Khổng tử trong sự nghiệp đào tạo con người Việt Nam hiện nay, Luận văn tốt nghiệp đại học SP giáo dục công dân, Trung tâm Học liệu trường Đại Học Cần Thơ.
(10) Lê Hữu Nghĩa (2000). Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, NXB Lao động.
(11). Nguyễn Thị Quế (2009). Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vận dụng phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp giáo dục ở Kiên giang hiện nay, Luận văn tốt nghiệp đại học SP giáo dục công dân, Trung tâm Học liệu trường Đại Học Cần Thơ.
(12). Đinh Ngọc Quyên (2001). Giáo trình lịch sử triết học. Đại Học Cần Thơ.
(13). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2001), Nxb CTQG, H. tr.77
(14). Hồ Kiếm Việt (2004). Góp phần tìm hiểu Đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia.
(15). Lê Văn Yên (2006). Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB lao động.