Quan niệm rủi ro trong hoạt động cho vay.
Dưới góc độ chuyên môn, cho vay là hoạt động tín dụng bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của ngân hàng thương mại thực hiện, trong hoạt động tín dụng này. Xét về bản chất và quan hệ kinh tế có thể nói cho vay là một nghiệp vụ tín dụng chiếm hơn 50% tổng tài sản có và có thu nhập từ cho vay chiếm từ 50% đến 80% tổng thu nhập của ngân hàng. Hơn nữa rủi ro trong hoạt động kinh doanh có xu hướng tập chung chủ yếu vào danh mục cho vay của ngân hàng.
Có rất nhiều quan niệm về rủi ro như: “Rủi ro là bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại” hay “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một hay nhiều biến cố không mong đợi”… Nhưng nói chung, mọi quan niệm đều đi đến thống nhất:
“rủi ro là biến cố xẩy ra ngoài ý muốn, sự hiểu biết, dự tính của chủ thể và đem lại những hậu quả xấu”. Rủi ro có thể xẩy ra bất cứ lúc nào trong mọi lĩnh vực cuộc sống, nhất là trong lĩnh vực tín dụng nói chung và nghiệp vụ cho vay nói riêng.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh rằng rủi ro trong hoạt động cho vay là nhiều nhất trong hoạt động kinh doanh tài chính tiền tệ. Nó xẩy ra dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau là ro các nguyên nhân sau.
- Tiền là nguyên liệu chính tạo ra sản phẩm cho vay. Tiền được dùng để giao dịch giữa người cho vay và khách hàng vay. Mặt khác tiền là thứ nguyên liệu độc tôn không thể thay thế, nguyên liệu nay chịu tác động rất nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị xã hội, chiến tranh, thiên tai … một trong các yếu tố này thay đổi thì hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng.
- Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng chịu sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo hành lang pháp lý quy định. Nhà nước can thiệp vĩ mô vào nền kinh tế thị trường. Trong đó lĩnh vực tài chính tiền tệ nó chịu nhiều sự quản lý lớn của chính phủ thông qua các công cụ chính sách của nhà nước, những quy định, nghị định, pháp lệnh của ngân hàng nhà nước. Do vậy mỗi khi có sự điều chỉnh của chính phủ hoặc của ngân hàng nhà nước làm cho các ngân hàng thương mại gặp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh, thậm chí có thể phải ngánh chịu những tổn thất trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính có quan hệ mật thiết với nhiều lĩnh vực, thành phần kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Bất cứ một sự thay đổi nào của các lĩnh vực, thành phần kinh tế cũng đều tác động gây phản ứng dây truyền đối với các ngân hàng. Ví dụ: hiện nay tình trạng chiếm dụng vốn, nợ đọng trong xây dựng cơ bản đã làm nhiều doanh nghiệp xây dựng gặp phải khó khăn, mất khả năng thanh toán, không thể trả nợ cho các ngân hàng thương mại làm cho nợ quá hạn của ngân hàng dâng cao, chiếm tỉ lệ lớn trong tổng dư nợ cho vay.
Do những đặc điểm trên, rui ro trong cho vay là rất lớn. Vì vậy nhận thức đúng đắn và đầy đủ rui ro cho vay là rất quan trọng để từ đó đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay.
Rủi ro cho vay là rui ro về sự tổn thất tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp xuất phát từ người cho vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán.
Chúng ta biết rằng tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người đi vay và người cho vay. Cho vay hoàn trả khác với nghiệp vụ tài trợ cấp vốn của nhà nước cho các thành phần kinh tế… Hoạt động cho vay là hoạt động rất đa dạng, là một hoạt động kinh doanh hàng hoá phức tạp. Tính phức tạp của nó chính là đối tượng kinh doanh tức là tiền tệ, ở đây tiền tệ được tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay.
Người ta cho rằng quyền cho vay là của người cho vay và quyền trả nợ thực tế là của người đi vay. Chính vì vậy đòi hỏi người cho vay phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của người đi vay, dự tính, phán đoán khả năng, mức độ rủi ro. Quan hệ cho vay là quan hệ kinh tế bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay, là sự cam kết thoả thuận bằng các điều khoản thi hành thể hiện trong các hợp đồng cho vay. Sự cam kết này chính là cơ sỏ pháp lý cơ bản để thực hiện nghĩa vụ của hai bên tham gia hoạt động cho vay. Nó là cơ sở pháp lý để đảm bảo tín dụng. Bên cạnh đó còn có các cam kết khác bằng các hành vi hay năng lực kính tế, thể hiện bằng vật chất, uy tín như tài sản thế chấp, cầm cố, ký quỹ bảo lãnh.
Trong cho vay một bên là người cho vay vốn, một bên là người đi vay vốn và một bên là cho vay giữa hai bên là hợp đồng tín dụng. Vốn ở đây được thể hiện bằng tiền chứ không bằng tài sản hay bất cứ gì khác. Rủi ro vẫn xẩy ra mặc dù bên đi vay cam kết sẽ trả đầy đủ và đúng hạn cho bên cho vay theo các điều khoản của đồng cho vay. Nhưng tình trạng vi phạm cam kết đó xảy ra khá phổ biến kể cả trong trường hợp người đi vay có đủ năng lực tài chính.
Mặt khác rủi ro cho vay còn có thể xảy ra ngay cả khi bên đi vay hiện nghiêm các điều khoản cam kết trong hoạt động cho vay, thanh toán đầy đủ tiền vay (gốc và lãi) cho bên cho vay nhưng do biến động của lãi suất, rủi ro trong trường hợp mà số tiền cho vay thu về không bằng chi phí cơ hội của khoản vay đó ở thời điểm cho vay.
Rủi ro trong cho vay là một loại rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng vốn là loại rủi ro phức tạp, để đánh giá rủi ro tín dụng là việc làm rất khó khăn đối với ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể xảy ra với bất kỳ món tiền nào, bất cứ nơi nào. Chính vì vậy rủi ro cho vay đòi hỏi các ngân hàng thương mại có cách nhìn cụ thể về rủi ro, có những giải pháp đồng bộ, hửu hiệu mới có thể ngăn ngừa bớt rủi ro.
Các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động cho vay.
Ở nước ta vấn đề rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và vấn đề quản lý nó không còn mới mẻ. Với sự non yếu về nghiệp vụ ngân hàng đồng thời hoạt động trong môi trường đầy rủi ro, vấn đề nhận thức rủi ro đặc thù và quản lý nó đang là vấn đề cấp bách trong hệ thống ngân hàng cả nước. Bộ máy quản lý ngân hàng kém năng động, rủi ro càng dể phát sinh. Khiến nó không thể hiện được hết khả năng vốn có của mình, thiệt hại cho nền kinh tế sẽ xẩy ra.
Rủi ro ngân hàng không những là nổi ám ảnh của hệ thống ngân hàng một nước mà còn là nổi ám ảnh chung của hệ thống ngân hàng trên thế giới. Những bất ngờ luôn xẩy ra ngay cả đối với các ngân hàng có đội ngũ nhân sự giỏi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất cũng khó lường trước được rủi ro. Vì thế nhận thức được rủi ro trong cho vay là những vấn đề thời sự cho hệ thống ngân hàng. Có hai loại rủi ro chính thường xẩy ra trong hoạt động cho vay trong hệ thống ngân hàng.
- Rủi ro về mặt tài chính bao gồm.
+ Rủi ro thanh toán tiền vay: Khi người đi vay không thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ tiền vay khi đến hạn do tình hình kinh doanh gập khó khăn, dẫn đến mất khả năng thanh toán tạm thời hoặc vỉnh viễn hay người đi vay cố ý không trả tiền vay do ý đồ chiếm dụng hoặc lừa đảo.
+ Số tiền thu về (cả gốc và lãi) không bù đắp được số vốn mà ngân hàng cho vay đó bỏ ra để cho vay.
+ Rủi ro khi có sự thay đổi tỷ giá hối đoái: Do các khoản cho vay bằng ngoại tệ ngày càng tăng, cùng với các nghiệp vụ khác nên các ngân hàng phải trực tiếp tham gia vào thị trường hối đoái. Từ lúc ký hợp đồng cho vay đến khi giải ngân song. Ngân hàng cần có một khoảng thời gian nhất định. Do đó khó tránh khỏi những rủi ro xảy ra khi tỷ giá hối đoái thay đổi.
+ Rủi ro khi có sự thay đổi lãi suất bình quân trên thị trường ảnh hưởng đến mức lãi suất ngân hàng đang áp dụng trong các giao dịch cho vay.Lãi xuất cho vay của các ngân hàng thương mại được xác định trên lãi xuất bình quân trên thị trường và chính sách lãi suất của ngân hàng. Mức lãi xuất này được áp dụng cho người đi vay trong suốt thời gian vay (hợp đồng vay lãi suất cố định). Vì vậy trong thời gian đó, nếu có sự biến động lớn về lãi suất sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngân hàng đặc biệt là khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Rủi ro về tài sản đảm bảo biến động về giá cả. Rủi ro này xảy ra khi các tài sản đảm bảo bị thay cốt lõi hoặc bị chiếm đoạt hay mất chộm ….điều này gây cho ngân hàng tổn thất khi thanh lý để bù đắp khoản vay.
Để thực hiện việccho vay một cách cho vay có hiệu quả, điều không thể không làm là phòng ngừa và hạn chế rủi ro xuống mức thấp nhất, vừa đảm bảo cho vay có điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh trong khi bên cho vay vẫn thu hồi được gốc và có lãi.
Các chỉ tiêu đánh giá đọ rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
Chỉ tiêu phản ánh rủi ro cho vay.
+ Kết cấu dư nợ cho vay: Dựa vào kết cấu dư nợ cho vay mà ta có thể xác định rủi ro của ngân hàng cho vay cao hay thấp. Nếu kết cấu dư nợ quá tập trung vào một số doanh nghiệp hoặc thành phần kinh tế chuyên sản xuất kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh vực nhất định hoặc cho vay tiêu dùng quá nhiều, sẽ có rủi ro lớn do mức đọ tập chung vốn cho vay cao. Như vậy dựa vào kết cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế, đối tượng, nghề nghiệp…kết hợp với việc phân tích các yếu tố liên quan đến khách hàng có thể đánh giá rủi ro cao hay là thấp.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn /tổng dư nợ cho vay.
Các ngân hàng cho vay và khách hàng vay đều muốn tránh tình trạng nợ quá hạn. Về phía khách hàng đi vay, nếu quá hạn không trả được sẽ mất uy tín, phải chịu một lãi xuất quá hạn cao hơn lãi xuất trong hạn, đối với ngân hàng cho vay, nợ quá hạn sẽ làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn/dư nợ cho vay. Tỷ lệ này gián tiếp cho ta thấy quy mô của các khoản cho vay có vấn đề của ngân hàng thương mại. Nếu tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ chất lượng các hợp đồng cho vay là kém, ngân hàng công thương phải xem xét lại khả năng, đánh giá lại quy trình, thủ tục cho vay, đặc biệt là xem xét lại khả năng thực hiện nhiệm vụ của cán bộ cho vay.
Tuy nhiên, nợ quá hạn chưa phải là tổn thất của ngân hàng thương mại, đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp, bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn này đều dẫn đến tổn thất.
+ Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/dư nợ quá hạn:
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/dư nợ quá hạn là một chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi ro. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng bị tổn thất. Nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng cho vay.
Nợ quá hạn có khả năng tổn thất thường bao gồm những khoản nợ quá hạn có thời gian quá hạn lớn (từ 6 tháng trở lên). Đối với ngân hàng cho vay việc duy trì các chỉ tiêu này với tỷ lệ cao trong báo cáo tài chính là điều khó chấp nhận. Ngân hàng cho vay luôn tìm cách giảm chỉ tiêu này xuống và biện pháp duy nhất là tích cực truy thu các khoản vay này. Những khoản này thực sự không thu hồi được phải hạch toán vào chi phí hoạt động và lấy quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất.
Các chỉ tiêu đo lường rủi ro.
+ Tổn thất tín dụng cho vay:
Tổn thất tín dụng cho vay = giá trị mất trong hoạt động cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị bằng tiền bị tổn thất trong kỳ do hoạt động cho vay gây nên, đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô, giá trị tuyệt đối của tổn thất.
+ Tỷ lệ tổn thất tín dụng cho vay:
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng cho vay trong kỳ thì có bao nhiêu giá trị bị tổn thất trong kỳ, nó mang tính thời kỳ thuận tiện việc khi sử dụng nó để so sánh, phản ánh giữa các kỳ.
Nguyên nhân gây ra rủi ro.
Nguyên nhân bất khả kháng.
Đây là những nguyên nhân gây nên rủi ro co hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho vay không xuất phát từ cán bộ cho vay hay ý thức trả nợ của khách hàng mà do môi trường bên ngoài tác động vào. Nguyên nhân này xuất hiện đột ngột, khó đoán, khó kiểm soát, nó thường gây ra những thiệt hại lớn cho khách hàng và ngân hàng cho vay. Bao gồm các nguyên nhan cụ thể sau.
Do sự thay đổi chính sách của chính phủ
Nước ta đang thực hiện quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường. Do đó phải tuân thủ và chấp nhận sự biến động theo quy luật của nền kinh tế thị trường. Mổi khi nền kinh tế biến động lên, xuống thì lập tức chính phủ phải đưa ra các chính sách kinh tế mới phù hợp với điều kiện hiện hành nhằm hạn chế ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế đất nước. Các chính sách của chính phủ thường xuyên quan tâm và có sự thay đổi kịp thời là:
+ Chính sách tài chính: Chính sách này liên quan đến cơ chế thu chi ngân sách chính phủ.
+ Chính sách tiền tệ: Chính phủ sử dụng các công cụ như: lãi suất chiết khấu, dự trử bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở… Để điều chỉnh mức cung ứng tiền tệ khi có biến động xẩy ra.
+ Chính sách đầu tư phát triển: Đây là những chính sách mà khi chính phủ điều chỉnh sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp cho các ngân hàng thương mại, thường là những ảnh hưởng không tích cực cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên nếu ngân hàng thương mại nắm bắt được thông tin kinh tế kịp thời thì sẽ hạn chế được rủi ro sẩy ra.
Nguyên nhân từ phía môi trường pháp lý.
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, mang tính xã hội cao, khi hệ thống pháp luật ổn định và lành mạnh thì môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại sẽ có nhiều thuận lợi. Ngược lại nếu môi trường pháp lý thiếu đồng bộ, có nhiều khe hở thì rất rể bị lợi dụng gây ra tình trạng tham ô, chiếm đoạt tài sản… Kinh tế xã hội kém ổn định dẫn đến kinh doanh gập nhiều khó khăn, ngân hàng cho vay gặp rủi ro.
Môi trường tự nhiên.
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điều kiện tự nhiên là yếu tố khó dự đoán, nó thường xẩy ra bất ngờ với thiệt hại lớn ngoài tầm kiểm soát của con người. Vì vậy khi có thiên tai địch hoạ xẩy ra khách hàng cùng các ngân hàng cho vay sẽ có nguy cơ tổn thất lớn, phương án, dự án kinh doanh không có nguồn thu … Điều đó đồng nghĩa với các ngân hàng cho vay phải cùng chia sẽ rủi ro với khách hàng của mình. Ở Việt Nam do thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự nhiên đươc coi là nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cho vay khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế.
Môi trường kinh tế xã hội.
Môi trường kinh tế xã hội trong một nước biến động chịu ảnh hưỏng của những biến động từ nền kinh tế thế giới, đó là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế trong đó hoạt động kinh doanh tiền tệ chứa nhiều nguy cơ rủi ro lớn nhất.
Sự thay đổi các mối quan hệ quốc, các quan hệ ngoại giao của chính phủ củng là nguyên nhân gây ra rủi ro lớn cho hoạt động cho vay của ngân hàng cho vay.
Bên cạnh đó hoạt động cho vay phụ thuộc rất nhiều thói quen, truyền thống, tập quán của ngươi dân. Những yếu tố đó nhiêu khi gây khó khăn và hạn chế mở rộng hoạt động cho vay của các ngân hàng cho vay.
Tất cả những nguyên nhân khách quan trên nếu không được dự báo, và có biện pháp phòng ngừa kịp thời sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh và điều kiện kinh doanh của ngân hàng cho vay và khách hàng vay vốn.
Khi khách hàng gập phải rủi ro do ngyên nhân khách quan gây nên, họ không còn đủ khả năng thực hiện cam kết trong hợp đồng cho vay thì viêc tốt nhất là ngân hàng cho vay có thể làm là giúp đỡ hổ trợ khách hàng để khách hàng để họ khôi phục lại hoạt động kinh doanh tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng cho vay.
Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Các yếu tố chủ quan từ phía bên đi vay chính như: Khả năng kinh doanh yếu kém hay bên đi vay có hành vi lừa đảo, vi phạm pháp luật… Cũng gây nên các tổn thất cho các ngân hàng cho vay. Trường hợp này nếu bên cho vay (ngân hàng cho vay) phát hiên ra sớm thì rủi ro có thể được ngăn chặn.
Hiện nay cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bên đi vay thường gặp rủi ro sau.
-Thiệt hại từ phía thị trường đầu vào: Giá cả của các yếu tố đầu vào tăng cùng với các chi phí phục vụ cho sản xuất tăng làm giảm đi nguồn dự thu dự tính của khách hàng, như vậy việc trả nợ cho các ngân hàng cho vay sẽ gặp nhiều khó khăn.
- Do thị trường đầu ra: Thị trường đầu ra nếu có biến động phức tạp, giá cả giảm thấp cũng làm nguồn thu cua khách hàng không đảm bảo. Ngoài ra, sự thay đôi thị hiếu tiêu dùng, cung vượt quá cầu, hoạt động maketing yếu kém… cũng gây nên tình trạng ứ đọng sản phẩm làm ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho các ngân hàng cho vay.
- Rủi ro về khả năng tài chính của khách hàng: Nguồn vốn tự có hay thu nhập của khách hàng nhỏ, khách hàng sẽ không có khả năng tự vực dậy khi gặp khó khăn vì vậy cũng sẽ mất khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay.
Ngoài những nguyên nhân trên còn phải kể đến ý thức trả nợ của bên đi vay nhiều khi chưa tốt, nhiều đối tượng khách hàng sau khi nhận được tiền vay rồi bỏ trốn gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng cho vay.
Những tiêu chí trên cùng với những tiêu chí định lượng để ngân hàng xếp hạng khách hàng.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay.
- Do chính sách của ngân hàng cho vay không phù hợp, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ hoặc đặt mục tiêu lợi nhuận quá cao. Chúng ta đều biết đặc điểm của kinh doanh tiền tệ là: Lợi nhuận cao luôn đi cùng với các ngân hàng cho vay phải biết lựa sức mình để xác định, lợi nhuận hợp lý cho ngân hàng của mình
- Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ cho vay yếu kém dẫn đến cán bộ cho vay không đánh giá chính xác về khách hàng và phương án vay vốn, từ đó làm phát sinh những hợp đồng cho vay kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ. Cùng với sự hạn chế về trình độ là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ cho vay. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng phải không những có trình độ mà còn phải có đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ cho vay đã xa ngã, có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, móc ngoặc với khách hàng, ngây tổn thất to lớn với ngân hàng cho vay.
Ngoài ra còn các nguyên nhân gây rủi ro từ vấn đề bảo đảm tiền vay .
Trong hoạt đông cho vay, việc đảm bảo tài sản cho các khoản vay được định giá gốc và ký kết giữa ngân hàng cho vay và khách hàng vay. Rủi ro có thể xảy ra do ngân hàng cho vay không đánh giá đúng giá trị tài sản đảm bảo hoặc giá trị tài sản thế chấp có biến động theo chiều hướng xấu.
Tóm lại: Việc nghiên cứu các guyên nhân gây nên rủi ro cho vay có ý nghĩa rất quan trọng giúp các ngân hàng cho vay đưa ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn rủi ro xảy ra cho hoạt động kinh doanh của mình.
Tác động của rủi ro trong hoạt động cho vay.
Rủi ro làm phát sinh tăng chi phí giảm lợi nhuận.
Khi các ngân hàng cho vay xuất hiện những khoản nợ quá hạn, việc đầu tiên là các ngân hàng cho vay phải tìm cách thu hồi nợ. Việc thu hồi nợ quá hạn vừa làm mất thời gian của cán bộ cho vay, vừa làm tăng khoản chi phí về đi lại để lấy nợ. Nếu các khoản nợ này có liên quan đến nhiều bên thì ngân hàng cho vay phải chi phí về cả thời gian lẫn tiền cho công việc thương lượng, gặp gỡ cac bên trong quá trình xử lý nợ. Đây là những chi phí trước mắt mà các ngân hàng cho vay phải bỏ ra. Bên cạnh đó các ngân hàng cho vay phải bỏ ra chi phí cơ hội rất lớn: Các khoản nợ quá hạn làm chậm lại vòng quay vốn tín dụng, làm mất đi các khoản đầu tư khác của mình, đó là chưa kể đến sự ảnh hưởng lớn của nợ qúa hạn với tâm lý cuả cán bộ cho vay. Nợ quá hạn phát sinh làm cho cán bộ tín dụng phải mất thời gian xử lý nợ, không tiếp cận được những món vay mới đồng thời còn làm cho cán bộ cho vay ngần ngại mở rộng hoạt động cho vay… Tất cả những vấn đề này làm giảm thu nhập tiềm ẩn và làm tăng chi phí cho các ngân hàng cho vay, từ đó làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho vay.
Rủi ro làm giảm uy tín của cac ngân hàng cho vay.
Các ngân hàng cho vay khi gặp rủi ro, kinh doanh kém hiệu quả, uy tín sẽ bị giảm sút trên thị trường. Đây là sự thiệt hại vô hình mà không thể lường được giá trị.
Rủi ro trong hoạt động cho vay còn gây ra tổn thất gián tiếp cho các ngân hàng khác.
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó liên quan đến mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, là khâu cốt yếu cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ, đến công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Nếu có sự thất thoát lớn trong hoạt động tín dụng dù chỉ ở một ngân hàng cho vay trực thuộc, không khắc phục kịp thời thì có thể gây nên “phản ứng dây truyền” đe doạ đến an toàn và ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây hậu quả rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.
Hiện nay ở Việt Nam, dư nợ cho vay chiếm phần lớn trong dư nợ tín dụng của ngân hàng thương mại và phi ngân hàng, đây sẽ là hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng thương mại là điều kiện cần phát triển trong cho nền kinh tế, việc các ngân hàng thương mại gặp rủi ro, bị tổn thất sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng và gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế.