Khái niệm thẩm định dự án đầu tư
Đối với mỗi DAĐT, từ khi lập xong đến khi thực hiện phải được thẩm định qua nhiều cấp: Nhà nước, nhà đầu tư, nhà đồng tài trợ… Đứng dưới mỗi giác độ, có những định nghĩa khác nhau về thẩm định. Nhưng hiểu một cách chung nhất thì:
“Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành, khai thác và tính sinh lợi của công cuộc đầu tư”
Cụ thể theo cách phân chia các giai đoạn của chu trình DAĐT, ta thấy ở cuối Bước 1 có khâu “Thẩm định và ra quyết định đầu tư”. Đây là bước mà chủ đầu tư phải trình hồ sơ nghiên cứu khả thi lên các cơ quan có thẩm quyền để xem xét quyết định và cấp giấy phép đầu tư và cấp vốn cho hoạt động đầu tư.
Dưới góc độ là người cho vay vốn, các Ngân hàng thương mại (viết tắt là NHTM) khi nhận được bản luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ tiến hành thẩm định theo các chỉ tiêu và ra quyết định là có cho vay hay không cho vay. Sau đó là đi đến “đàm phán và ký kết hợp đồng”. Như vậy có thể hiểu thẩm định DAĐT trong Ngân hàng là thẩm định trước đầu tư hay thẩm định tín dụng. Nó được đánh giá là công tác quan trọng nhất.
Ý nghĩa của công tác thẩm định DAĐT
+ Đối với nền kinh tế : Xét trên phương diện vĩ mô để đảm bảo được tính thống nhất trong hoạt động đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, tạo ra một tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, đồng thời tránh được những thiệt hại và rủi ro không đáng có thì cần phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư cơ bản. Thẩm định DAĐT chính là một công cụ hay nói cách khác đó là một phương thức hữu hiệu giúp nhà nước có thể thực hiện được chức năng quản lý vĩ mô của mình. Công tác thẩm định sẽ được tiến hành thông qua một số cơ quan chức năng thay mặt nhà nước để thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư như: Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài Chính, Bộ khoa học công nghệ và môi trường…cũng như các UBND tỉnh, thành phố, các bộ quản lý ngành khác. Qua việc phân tích DAĐT một cách hết sức toàn diện, khoa học và sâu sắc, các cơ quan chức năng này sẽ có được những kết luận chính xác và rất cần thiết để tham mưu cho nhà nước trong việc hoạch định chủ trương đầu tư, định hướng đầu tư và ra quyết định đầu tư đối với dự án. Trong thực tế, để tạo điều kiện cho các cơ quan thẩm định dự án, các DAĐT được chia ra làm một số loại cụ thể. Trên cơ sở phân loại này, các sự phân cấp trách nhiệm trong khâu thẩm định và xét duyệt. Các DAĐT phải đảm bảo tính chính xác và được nhanh chóng phê duyệt. Hiện nay, các công tác quản lý đầu tư trên lãnh thổ Việt nam được thực hiện theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành và kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ban hành 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ – Nghị định số 12/2000/NĐ - CP ban hành 05/05/2000. Theo những Nghị định này, các ngân hàng đã cụ thể hoá chức năng của mình nhằm nâng cao hiệu quả về quản lý phân cấp đầu tư.
+ Đối với NHTM: Cũng như các doanh nghiệp khác, trong cơ chế thị trường hoạt động của NHTM phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến kết quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại và cạnh tranh là một quá trình diễn ra liên tục. Các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng. NHTM trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh, khả năng xảy ra rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ loại hình hoạt động này của ngân hàng như rủi ro tín dụng, thanh toán, chuyển hoán vốn, lãi suất, hối đoái…Trong đó rủi ro về tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn là rủi ro mà hậu quả của nó có thể tác động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác thậm chí đe doạ sự tồn tại của ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho bên đối tác (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với ngân hàng vào thời điểm báo hạn. Các khoản nợ đến hạn nhưng khách hàng không có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ thuộc về một trong hai trường hợp: khách hàng sẽ trả nợ ngân hàng nhưng sau một thời gian kể từ thời điểm báo hạn, như vậy ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro đọng vốn, hoặc khách hàng hoàn toàn không thể trả nợ cho ngân hàng được, trường hợp này ngân hàng gặp rủi ro mất vốn.
Như vậy rõ ràng trong nền kinh tế thị trường, thẩm định dự án là vô cùng quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực tiễn hoạt động của các NHTM Việt Nam một số năm vừa qua cho thấy bên cạnh một số DAĐT có hiệu quả đem lại lợi ích to lớn cho chủ đầu tư và nền kinh tế, còn rất nhiều dự án do chưa được quan tâm đúng mức đến công tác thẩm định trước khi tài trợ đã gây ra tình trạng không thu hồi được vốn nợ quá hạn kéo dài thậm chí có những dự án bị phá sản hoàn toàn. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động ngân hàng, đồng thời làm cho uy tín của một số NHTM bị giảm sút nghiêm trọng. Như vậy, khi đi vào nền kinh tế thị trường với đặc điểm cố hữu của nó là đầy biến động và rủi ro thì yêu cầu nhất thiết đối với các NHTM là phải tiến hành thẩm định các DAĐT một cách đầy đủ và toàn diện trước khi tài trợ vốn. Qua phân tích trên, đối với các NHTM, thẩm định dự án có ý nghĩa sau đây:
- Ra các quyết định bỏ vốn đầu tư đúng đắn, có cơ sở đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư.
- Phát hiện và bổ sung thêm các giải pháp nâng cao tính khả thi cho việc triển khai thực hiện dự án, hạn chế giảm bớt yếu tố rủi ro.
- Tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng và tiết kiệm vốn trong quá trình thực hiện.
- Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư của dự án cũng như khả năng hoàn vốn, trả nợ của dự án và chủ đầu tư.
- Rút kinh nghiệm và đưa ra bài học để thực hiện các dự án được tốt hơn.
- Tư vấn cho chủ đầu tư để hoàn thiện nội dung của dự án.
Nội dung công tác thẩm định DAĐT tại các NHTM
Xem xét sơ bộ theo các nội dung chính của dự án:
- Mục tiêu của dự án
- Sự cần thiết đầu tư dự án
- Quy mô đầu tư: Công suất thiết kế, giải pháp công nghệ, cơ cấu sản phẩm và dịch vụ đầu ra của các dự án, phương án tiêu thụ sản phẩm.
- Quy mô vốn đầu tư: Tổng vốn đầu tư, cơ cấu đầu tư theo các tiêu chí khác nhau(lắp đặt, thiết bị và các chi phí khác…)
Phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của các dự án.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của các dự án đóng vai trò rất quan trọng quyết định việc thành bại của một dự án. Vì vậy việc thẩm định dự án cần được xem xét đánh giá kỹ về phương diện này khi thẩm định dự án. Các nội dung chính cần xem xét đánh giá là:
- Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm của dự án:
+ Định dạng sản phẩm của dự án.
+ Đặc tính của nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, tình hình sản xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định.
+ Xác định tổng nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị trường nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm của dự án trong đó lưu ý liên hệ với mức gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm của dự án có thể bị thay thế bởi sản phẩm khác có cùng công dụng.
- Đánh giá về cung sản phẩm:
+ Xác định năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của sản phẩm dự án như thế nào, các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng được bao nhiêu phần trăm, phải nhập khẩu bao nhiêu, việc nhập khẩu là do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh hơn.
+ Dự đoán biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác, đối tượng khác cũng tham gia vào thị trường sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự án.
+ Sản lượng nhập khẩu trong những năm qua, dự kiến khả năng nhập khẩu trong những năm tới.
+ Dự đoán ảnh hưởng của chính sách thuế xuất – nhập khẩu đến thị trường sản phẩm của dự án.
+ Đưa ra một số liệu dự kiến về tổng cung hoặc tốc độ tăng trưởng về tổng cung sản phẩm, dịch vụ.
- Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án:
Để đánh giá về khả năng đạt được các mục tiêu của thị trường, cán bộ thẩm định cần thẩm định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án như sau:
+ Thị trường nội địa: cần xem xét đánh giá về hình thức, mẫu mã , giá cả, chất lượng sản phẩm xem có phù hợp với thị hiếu của người tiêu thụ.
+ Thị trường nước ngoài: cần xem xét đánh giá về tiêu chuẩn để xuất khẩu, quy cách chất lượng, mẫu mã, thị trường xuất khẩu dự kiến, sản phẩm cùng loại của Việt Nam đã thâm nhập vào thị trường xuất khẩu dự kiến chưa, kết quả…
- Phương pháp tiêu thụ và mạng lưới phân phối:
Cần xem xét đánh giá trên các mặt: sản phẩm của dự án dự kiến được tiêu thụ theo phương thức nào, cần có hệ thống phân phối không. Mạng lưới phân phối sản phẩm của dự án đã được thiết lập hay chưa, có phù hợp với đặc điểm của thị trường hay không, phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay để dự kiến các khoản phải thu khi tính toán nhu cầu vốn lưu động ở phân tích tính toán hiệu quả của các dự án.
- Đánh giá về dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án:
Trên cơ sở đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án, cán bộ thẩm định phải đưa ra được các dự kiến về khả năng tiêu thụ được sản phẩm của dự án sau khi đi vào hoạt động theo các chỉ tiêu chính thức như sản lượng sản xuất tiêu thụ hàng năm, sự thay đổi của cơ cấu, sản phẩm nếu dự án có nhiều loại sản phẩm, diễn biến giá bán sản phẩm dịch vụ đầu ra hàng năm.
Thẩm định về khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào của một dự án.
Trên cơ sở hồ sơ dự án(báo cáo đánh giá chất lượng, trữ lượng tài nguyên, giấy phép khai thác tài nguyên, nguồn thu mua bên ngoài, nhập khẩu…) và đặc tính kỹ thuật của dây chuyền công nghệ, đánh giá đáp ứng đến khả năng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho dự án:
- Nhu cầu về nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ sản xuất hàng năm.
- Các nhà cung ứng nguyên vật liệu đầu vào: do một hay nhiều nhà cung cấp, quan hệ từ trước hay mới thiết lập, khả năng cung ứng và mức độ tín nhiệm.
- Chính sách nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu đầu vào nếu có.
- Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tỉ giá trong trường hợp phải nhập khẩu.
Tất cả những phân tích đánh giá trên đều nhằm kết luận được hai vấn đề chính sau đây:
+ Có chủ động được nguyên nhiên vật liệu đầu vào hay không tức tính ổn định lâu dài của nguồn nguyên vật liệu.
+ Những thuận lợi khó khăn đi kèm với việc đó có thể chủ động được nguyên nhiên vật liệu đầu vào.
Thẩm định về phương diện kỹ thuật
Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật là việc kiểm tra phân tích các yếu tố kỹ thuật và công nghệ chủ yếu của dự án để đảm bảo tính khả thi về mặt thi công và xây dựng dự án cũng như việc vận hành dự án theo đúng các mục tiêu đã dự kiến. Đối với ngân hàng, việc phân tích kỹ thuật lại là một vấn đề khó nhất vì nó đề cập đến rất nhiều chỉ tiêu và quan trọng hơn cả là nó quyết định đến chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy mà cán bộ tín dụng cần đặc biệt quan tâm đến việc thẩm định dự án trên phương diện kỹ thuật, về việc thẩm định dự án này dựa trên các nội dung chính sau đây:
- Địa điểm xây dựng:
+ Xem xét, đánh giá địa điểm có thuận lợi về giao thông hay không, có gần nguồn cung cấp nguyên vật liệu, điện nước và thị trường tiêu thụ hay không, có nằm trong quy hoạch hay không.
+ Cơ sở vật chất, hạ tầng liên quan đến địa điểm đầu tư thế nào, đánh giá so sánh về chi phí đầu tư so với các dự án tương tự ở địa điểm khác.
+ Địa điểm đầu tư có ảnh hưởng lớn đến vốn đầu tư của dự án cũng như ảnh hưởng đến giá thành, sức cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm.
- Quy mô sản xuất và sản phẩm của dự án:
+ Sản phẩm của dự án là sản phẩm mới hay đã có sẵn trên thị trường.
+ Quy cách phẩm chất, mẫu mã của sản phẩm như thế nào.
+ Yêu cầu kỹ thuật tay nghề để sản xuất sản phẩm có cao hay không.
+ Công suất dự kiến của dự án là bao nhiêu, có phù hợp với khả năng tài chính và trình độ quản lý, địa điểm, thị trường tiêu thụ hay không.
Công nghệ thiết bị:
- Quy trình công nghệ có tiên tiến hiện đại, ở mức độ nào của thế giới.
- Công nghệ này có phù hợp với trình độ hiện nay của Việt Nam hay không, lý do lựa chọn công nghệ này.
- Phương thức chuyển giao công nghệ có hợp lý hay không, có đảm bảo cho chủ đầu tư nắm bắt và vận hành được công nghệ hay không.
- Xem xét đánh giá về số lượng công suất quy hoạch chủng loại, danh mục, máy móc thiết bị và tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất.
- Trình độ tiên tiến của thiết bị, khi cần thiết phải thay đổi sản phẩm thì thiết bị này có đáp ứng được hay không.
- Giá cả thiết bị và phương thức thanh toán có hợp lý, đáng ngờ không.
- Thời gian giao hàng và lắp đặt thiết bị, các nhà cung cấp thiết bị có chuyên sản xuất các thiết bị của dự án hay không.
Khi đánh giá về mặt công nghệ thiết bị ngoài việc dựa vào hiểu biết, kinh nghiệm đã tích luỹ của mình, cán bộ thẩm định cần tham khảo các nhà chuyên môn để việc thẩm định được chính xác và cụ thể hơn.
- Quy mô và giải pháp xây dựng:
+ Xem xét quy mô xây dựng, giải pháp kiến trúc có phù hợp với dự án hay không, có tận dụng được các cơ sở vật chất hiện có hay không.
+ Tổng dự toán, dự toán của từng hạng mục công trình, có hạng mục nào cần đầu tư mà chưa được tích luỹ hay không, có hạng mục nào cần thiết hoặc chưa cần thiết phải đầu tư hay không.
+ Tiến độ thi công có phù hợp với việc cung cấp máy móc thiết bị, có phù hợp với thực tế hay không.
+ Vấn đề hạ tầng cơ sở: Giao thông, điện, cấp thoát nước…
- Môi trường:
+ Xem xét đánh giá các giải pháp về môi trường của dự án có đầy đủ, phù hợp chưa, đã được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận trong từng trường hợp yêu cầu phải có hay chưa.
Trong phần này, cán bộ thẩm định cần phải đối chiếu với các quy định hiện hành về việc lập dự án và duyệt trình báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Thẩm định về phương diện tổ chức và quản lý thực hiện dự án
- Xem xét năng lực uy tín của các nhà đầu tư, thi công cung cấp thiết bị, công nghệ.
- Xem xét kinh nghiệm, trình độ tổ chức vận hành chủ yếu của các nhà đầu tư, đánh giá sự hiểu biết, kinh nghiệm của khách hàng đối với việc tiếp cận điều hành công nghệ, thiết bị mới của dự án.
- Khả năng ứng xử của khách hàng khi thị trường dự kiến biến mất.
- Đánh giá về nguồn lực của dự án cần đòi hỏi về tay nghề, trình độ kỹ thuật, kế hoạch đào tạo, khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho dự án.
Thẩm định về mặt tài chính của dự án.
Thẩm định tài chính DAĐT, đối với NHTM, ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả của dự án còn nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nguồn vốn mà ngân hàng tài trợ cho dự án. Đó là việc phân tích, xem xét, đánh giá về mặt tài chính của DAĐT bao gồm một loạt các phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính và các chỉ tiêu phân tích DAĐT. Qua đó đi đến kết luận có đầu tư cho dự án hay không.
Trong công tác thẩm định tài chính DAĐT, giá trị thời gian của tiền là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc tính toán các chỉ tiêu, việc thẩm định chi phí và lợi ích của dự án phải được quy về thời điểm gốc để tiện cho việc so sánh. Thẩm định tài chính DAĐT ở các NHTM thường được tiến hành với các nội dung sau:
- Thẩm định về tổng vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
Việc thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện, vốn đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu dẫn đến việc không cân đối được nguồn ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án.
Tổng vốn đầu tư của dự án là tập hợp toàn bộ các khoản chi phí hợp lý góp phần hình thành nên dự án và đảm bảo cho dự án sẵn sàng đi vào hoạt động.
Vốn đầu tư gồm: Vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư và dự phòng:
- Vốn cố định nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt mục tiêu DA. Bao gồm:
+Vốn chuẩn bị đầu tư: gồm các chi phí điều tra, khảo sát, lập, thẩm định DAĐT.
+Vốn chuẩn bị xây dựng: chi phí ban đầu về đất đai(tiền đền bù, giải phóng mặt bằng, chuyển quyền sử dụng đất…). Chi phí khảo sát, lập và thẩm định thiết kế, tổng dự toán. Chi phí đấu thầu hoàn tất các thủ tục đầu tư. Chi phí xây dựng đường điện, nước, lán trại thi công.
+ Vốn thực hiện đầu tư: Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo các hạng mục công trình xây dựng, lắp đặt thiết bị. Chi phí mua sắm thiết bị, vận chuyển, bảo quản. Chi phí quản lý giám sát thực hiện đầu tư. Chi phí sản xuất thử và nghiệm thu bàn giao. Chi phí huy động vốn, các khoản lãi vay vốn đầu tư và các chi phí khác trong thời gian thực hiện đầu tư.
- Vốn lưu động là khoản vốn đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên sau khi kết thúc giai đoạn thực hiện đầu tư. Bao gồm:
+Vốn sản xuất: Chi phí nguyên , nhiên vật liệu, điện, nước, phụ tùng thay thế.
+ Vốn lưu động: Thành phần tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền.
- Vốn dự phòng: là tổng mức vốn đầu tư dự tính của dự án cần được xem xét theo từng giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư.
Trong phần này, cán bộ thẩm định phải xem xét đánh giá tổng hợp vốn đầu tư của dự án được tính toán hợp lý chưa, đã tính toán đủ các khoản cần thiết hay chưa, cần xem xét yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lưọng dự phòng, việc thay đổi tỷ giá ngoại tệ nếu dự án sử dụng ngoại tệ… Ngoài ra cán bộ thẩm định cũng cần tính toán, xác định xem nhu cầu vốn lưu động cần thiêt ban đầu để đảm bảo hoạt động của dự án sau này nhằm có cơ sở thẩm định các giải pháp nguồn vốn và tính toán hiệu quả tài chính sau này.
Trên cơ sở tổng mức vốn đầu tư được duyệt, cán bộ thẩm định rà soát lại từng loại nguồn vốn tham gia tài trợ cho dự án, đánh giá khả năng tham gia của từng loại nguồn vốn từ kết quả phân tích tình hình tài chính của chủ đầu tư, để đánh giá khả năng tham gia nguồn vốn của chủ sở hữu. Chi phí của từng loại nguồn vốn có điều kiện vay đi kèm của từng loại nguồn vốn. Cân đối giữa nhu cầu vốn đầu tư và khả năng tham gia tài trợ của các nguồn vốn dự kiến để đánh giá tính khả thi của nguồn vốn thực hiện dự án.
- Thẩm định chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận hàng năm của dự án.
Đây là vấn đề quan trọng mà chủ đầu tư và cả ngân hàng đều quan tâm vì nó là nhân tố phản ánh được dự án lỗ hay lãi. Việc xác định chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận phải tính riêng cho từng năm hoạt động của cả đời dự án.
- Việc xác định chi phí sản xuất hàng năm gồm: Chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng các bán thành phẩm và dịch vụ mua ngoài, chi tiền nước cho sản xuất, lương và bảo hiểm xã hội…và các khoản khác.
- Doanh thu hàng năm của dự án gồm: Doanh thu từ sản phẩm chính, sản phẩm phụ, tiền thu từ việc cung cấp dịch vụ cho bên ngoài; các khoản tiền thu khác. Sau khi xác định được nguồn thu và nguồn chi trong kỳ, ngân hàng phải xác định dòng tiền ròng hàng năm của dự án theo công thức:
NCFi= Bi - Ci
Trong đó, Bi là nguồn thu năm thứ (i)
Ci là nguồn chi năm thứ (i)
NCFi là dòng tiền ròng hàng năm của dự án năm thứ (i)
Trên cơ sở dó tiến hành thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng của dự án. NPV (Net Present Value)
NPV = * (1+r) - * (1+r)
Trong đó: NPV: là giá trị hiện tại
Bi: thu nhập năm thứ (i) của dự án
Ci: chi phí năm thứ (i) của dự án
r: lãi suất (tỉ lệ chiết khấu của dự án)
n: thời gian đầu tư vào hoạt động của dự án
i: năm thứ (i) của dự án
Giá trị hiện tại ròng của dự án là chênh lệch giữa thu và chi của dự án đầu tư tại thời điểm hiện tại. NPV cho biết quy mô tiền lời của dự án sau khi đã hoàn chỉnh vốn đầu tư. Khi tính toán chỉ tiêu này phải dựa trên cơ sở xác định giá trị hiện tại, tức là phải chiết khấu các dòng tiền xảy ra vào các năm khác nhau của dự án.
Nếu NPV = 0 nghĩa là các luồng tiền của dự án chỉ vừa đủ để hoàn vốn đầu tư và cung cấp 1 tỉ lệ lãi suất yêu cầu cho khoản vốn đó.
Nếu NPV > 0 nghĩa là dự án tạo ra nhiều tiền hơn lượng cần thiết để trả nợ và cung cấp 1 lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó thuộc về nhà đầu tư. Vì thế khi thực hiện một dự án có NPV > 0 thì ngân hàng sẽ dễ dàng chấp nhận cho vay.
Chỉ tiêu NPV chỉ được dùng để lựa chọn phương án về mặt tài chính. Trong trường hợp có nhiều dự án loại trừ nhau thì dự án nào có NPV lớn nhất sẽ được lựa chọn. Do NPV phụ thuộc vào tỉ suất chiết khấu nên để đạt được hiệu quả thì ta phải xác định thu, chi một cách chính xác.
- Tỷ suất thu hồi nội bộ của dự án IRR (Internal Rate of Return)
Tỷ suất thu hồi nội bộ là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó tổng giá trị hiện tại thu nhập bằng tổng giá trị hiện tại chi phí (tức NPV = 0).
+ Công thức:
=
+ Phương pháp tính: Dùng nội suy toán học theo 3 bước:
- Lập công thức tính NPV với r là ẩn số.
- Chọn r1, r2 sao cho r2 > r1 và r2 - r1≤ 5%
Thay vào đó để tìm NPV1 và NPV2 sao cho NPV1 > 0 và NPV2< 0 vì IRR làm cho cân bằng giữa các giá trị hiện tại của thu nhập và giá trị hiện tại của chi phí của dự án, cho nên với một mức chi phí > IRR thì dự án sẽ bị lỗ vốn và không có tính khả thi. Ngược lại với chi phí vốn ≤ IRR thì dự án mới khả thi. Trong thực tế diễn ra hai trường hợp:
- Đối với dự án độc lập thì Điều kiện lựa chọn IRRDA > IRR định mức.
Nếu dự án sử dụng nguồn vay thì IRR ≥ lãi suất tiền vay NH.
Cũng có thể so sánh IRR tính toán với IRR của những dự án tương tự đã và đang được thực hiện.
- Thời gian hoàn vốn đầu tư (T) của dự án:
Thời gian hoàn vốn là số năm cần thiết để cho tổng giá trị hiện tại thu hồi bằng tổng giá trị hiện tại của vốn đầu tư.
=
Chỉ tiêu này có ưu điểm là cho biết thời gian hoàn vốn để ra quyết định đầu tư, giảm thiểu rủi ro. Thời gian hoàn vốn càng ngắn chứng tỏ hiệu quả về mặt tài chính càng cao. Tuy nhiên, thời gian hoàn vốn có đặc điểm là không cho biết thu lớn hay nhỏ sau khi hoàn vốn. Trong thực tế đây cũng là mối quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư, mặt khác tính thời gian hoàn vốn thường quá dài có thể gây băn khoăn cho nhà đầu tư và ngân hàng.
- Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư ROI (Return on Investment).
ROI cho biết một đồng vốn đầu tư cho dự án có được mấy động lợi nhuận sau thuế. ROI là biểu hiện khả năng sinh lời của vốn đầu tư.
= 100%
Trong đó: I là tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án
Pr là lợi nhuận sau thuế hàng năm.
ROI tính xong được đem so sánh với ROI ở các doanh nghiệp, các dự án khác cùng ngành nghề và lĩnh vực.
- Chỉ số B/C của dự án (Benefit – Cost ratio)
B/C là tỉ số lợi ích và chi phí được xác định bằng tỉ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra. Lợi ích và chi phí của dự án có thể tính về thời điểm hiện tại hoặc thời điểm tương lai. Việc quy về thời điểm tương lai để tính chỉ tiêu này ít được sử dụng. Chỉ tiêu B/C thường được xác định theo công thức:
=
- Xác định thời điểm hoà vốn của dự án.
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó tổng doanh thu của dự án vừa đúng bằng tổng chi phí hoạt động. Điểm hoà vốn được biểu hiện bằng số đơn vị sản phẩm hoặc giá trị của doanh thu.
x : Khối lượng sản phẩm sản xuất hoặc bán được.
x0 : Khối lượng sản phẩm tại điểm hoà vốn.
f : Là chi phí cố định (định phí)
v : là chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm (biến phí).
v.x : Tổng biến phí.
P : là đơn giá sản phẩm.
Ta có phương trình: yDT = P.x
yCF = v.x + f
Tại thời điểm hoà vốn thì : px = vx + f suy ra
- Sản lượng hoà vốn:
- Doanh thu hoà vốn:
Nếu điểm hoà vốn càng thấp thì khả năng thu lợi nhuận trong năm đó của dự án càng cao, rủi ro thua lỗ càng thấp. Điểm hoà vốn thường được tính riêng cho từng năm hoạt động hoặc cho một năm đại diện nào đó khi dự án đi vào hoạt động ổn định.
Thẩm định về khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Xuất phát từ quan điểm của tín dụng là bên vay vốn (chủ đầu tư) phải hoàn trả ngân hàng đầy đủ và đúng năm số vốn gốc và lãi vay để NHTM có thể trả lại cho bên được huy động vốn hoặc cho vay đối với các dự án khác. Trong quá trình thẩm định DAĐT, NHTM đặt biệt quan tâm đến khả năng hoàn trả của chủ đầu tư khi đến kỳ hạn trả nợ. Khả năng trả nợ của một doanh nghiệp chủ đầu tư phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Dự án xin vay là DAĐT mới hay DAĐT chiều sâu, nguồn trả nợ chủ yếu trông đợi vào khả năng sản xuất kinh doanh của dự án hay có những nguồn bổ sung nào khác.
Hiện nay, các NHTM đang xác định mức trả nợ từng lần theo công thức:

Từ công thức trên, nếu sau khi đã dự kiến số kỳ trả nợ và biết tổng số nợ gốc phải trả mỗi kỳ, NHTM có thể so sánh cân đối các nguồn thu từ dự án như lợi nhuận vòng, khấu hao cơ bản cho TSCĐ và các nguồn khác xem khả năng trả nợ có đảm bảo không.
Thẩm định hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong đó có hoạt động đầu tư nhất thiết phải đước xem xét về mặt hiệu quả kinh tế – xã hội. Trong thực tế đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội là một vấn đề hết sức rộng lớn và phức tạp. Nhưng có thể thẩm định về phương diện này theo một số khía cạnh như : hiệu quả giá trị gia tăng; khả năng tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động; mức đóng góp cho Ngân sách; góp phần phát triển các ngành khác; phát triển khu nguyên vật liệu; góp phần phát triển kinh tế địa phương; tăng cường kết cấu hạ tầng từng địa phương; phát triển các dịch vụ thương mại, du lịch địa phương.
Thẩm định về biện pháp bảo đảm tiền vay:
Với bất kỳ một khoản vay nào thì Ngân hàng cũng cần có vật bảo đảm. Mục đích cho vay của Ngân hàng không phải để lấy vật bảo đảm. Tuy nhiên cán bộ tín dụng phải xem xét kĩ đánh giá chính xác vật đảm bảo để phòng trường hợp không thu được nợ. Việc đánh giá bao gồm:
+ Hình thức bảo đảm tiền vay: Thế chấp, cầm cố, hay bảo lãnh…
+ Các điều kiện đảm bảo tiền vay theo quy chế hiện hành như: tính hợp lý và hợp pháp của tài sản, uy tín của người bảo lãnh…
+ Xác định các khoản bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ trả nợ.
+ Các điều kiện khác như: tuổi thọ, tính hiện đại, chuyên môn hoá và có thể bán được trên thị trường không.
Phân tích về đề xuất những biện pháp giảm thiểu rủi ro:
Việc tính toán khả năng tài chính của dự án như đã giới thiệu ở trên chỉ đúng trong trường hợp dự án không bị ảnh hưởng bởi một loạt các rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy việc đánh giá, phân tích, dự đoán các rủi ro có thể xảy ra là rất quan trọng nhằm tăng tính khả thi của phương án tính toán dự kiến cũng như chủ động có biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu.
Phân loại rủi ro:
Rủi ro có thể do khách quan hoặc chủ quan: do cơ chế chính sách; xây dung, hoàn tất; thị trường, thu nhập, thanh toán; cung cấp; kĩ thuật và vận hành; môi trường và xã hội; kinh tế vĩ mô…
Các biện pháp giảm thiểu rủi ro:
Tuỳ Mỗi loại rủi ro trên đều có các biện pháp giảm thiểu, những biện pháp này có thể do chủ đầu tư phải thực hiện- đối với những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh, trách nhiệm của chủ đầu tư; hoặc do Ngân hàng phối hợp với chủ đầu tư cùng thực hiện- đối với những vấn đề mà Ngân hàng có thể trực tiếp thực hiện hoặc có thể yêu cầu theo những dự án cụ thể với những đặc điểm khác nhau mà cán bộ thẩm định cần tập trung phân tích đánh giá và đưa ra các điều kiện đi kèm với việc cho vay để hạn chế rủi ro, đảm bảo khả năng an toàn vốn vay, từ đó Ngân hàng có thể xem xét khả năng tham gia cho vay để đầu tư dự án. Sau đây là một số biện pháp cơ bản có thể áp dụng để giảm thiểu rủi roc ho từng loại rủi ro nêu trên.
- Rủi ro do cơ chế chính sách: Rủi ro này được xem là gồm tất cả những bất ổn tài chính và chính sách của nơi xây dung dự án, bao gồm: các sắc thuế mới, hạn chế về chuyển tiền, quốc hữu hoá, tư hữu hoá hay các luật, nghị quyết, nghị định và các chế tài khác có liên quan đến dòng tiền của dự án. Loại rủi ro này có thể giảm thiểu bằng cách: Khi thẩm định dự án, cán bộ thẩm định phải xem xét mức độ tuân thủ của dự án(thể hiện trong hồ sơ dự án) để đảm bảo chấp hành nghiêm ngặt các luật và quy định hiện hành có liên quan tới dự án; chủ đầu tư nên có những hợp đồng ưu đãi riêng quy định về vấn đề này; những bảo lãnh cụ thể về cung cấp ngoại hối sẽ góp phần hạn chế ảnh hưởng tiêu cực tới dự án…
- Rủi ro xây dung hoàn tất: Hoàn tất dự án không đúng thời hạn, không phù hợp với các thông số và tiêu chuẩn thực hiện. Loại rủi ro này nằm ngoài khả năng điều chỉnh và kiểm soát của Ngân hàng, tuy nhiên có thể giảm thiểu bằng cách đề xuất với chủ đầu tư thực hiện các biện pháp như: Lựa chọn nhà thầu xây dung có uy tín, sức mạnh tài chính, kinh nghiệm; thực hiện nghiêm túcviệc bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh chất lượng công trình; giám sát chặt chẽ trong quá trình xây dung; hỗ trợ của các cấp có thẩm quyền, dự phòng về tài chính của khách hàng trong trường hợp vượt dự toán; quy định rõ vấn đề đền bù trong trường hợp chậm tiến độ; hợp đồng giá cố định hoặc chìa khoá trao tay với sự phân chia rõ ràng nghĩa vụ các bên…
- Rủi ro về thị trường, thu nhập, thanh toán: Bao gồm thị trường không chấp nhận hoặc không đủ cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, do sức ép cạnh tranh, giá bán sản phẩm không đủ để bù đắp lại các khoản chi phí của dự án. Loại rủi ro này giảm thiểu bằng cách: Nghiên cứu thị trường, đánh giá phân tích thị trường, thị phần cẩn thận; dự kiến cung cầu thận trọng; phân tích về khả năng thanh toán, thiện ý hành vi của người tiêu dùng cuối cùng; tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án bằng các biện pháp: phân tích về việc cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất…, xem xét các hợp đồng bao tiêu sản phẩm dài hạn với bên có khả năng về tài chính; hỗ trợ bao tiêu sản phẩm của chính phủ…
- Rủi ro về cung cấp: dự án không có được nguồn nguyên nhiên vật liệu với số lượng, giá cả và chất lượng như dự kiến để vận hành dự án, tạo dòng tiền ổn định, đảm bảo khả năng trả nợ. Loại này có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách: trong quá trình xem xét dự án, cán bộ thẩm định phải nghiên cứu, đánh giá trọng các báo cáo về chất lượng, trữ lượng nguyên vật liệu đầu vào trong hồ sơ dự án, đưa ra những nhận định ngay từ ban đầu trong tính toán, xác định hiệu quả tài chính của dự án; nghiên cứu sự cạnh tranh giữa các nguồn cung cấp vật tư; linh hoạt về thời gian và số lượng nguyên nhiên vật liệu đưa vào…
- Rủi ro về kĩ thuật, vận hành, bảo trì: Đây là những rủi ro về việc dự án không thể vận hành và bảo trì ở mức độ phù hợp với các thông số thiết kế ban đầu. Loại rủi ro này, chủ đầu tư có thể giảm thiểu thông qua việc thực hiện một số biện pháp sau: Sử dụng công nghệ đã được kiểm chứng; bộ phận vận hành phải được đào tạo tốt, có kinh nghiệm; có thể kí hợp đồng vận hành và bảo trì với những điều khoản khuyến khích và phạt vi phạm rõ ràng; bảo hiểm các sự kiện bất khả kháng tự nhiên như lụt lội, động đất, chiến tranh; kiểm soát ngân sách và kế hoạch vận hành; quyền thay thế người vận hành do không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ…
- Rủi ro về môi trường- xã hội: Những tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường và người dân xung quanh. Loại rủi ro này, chủ đầu tư có thể giảm thiểu thông qua việc thực hiện một số biện pháp sau: Báo cáo đánh giá tác động môi trường phải khách quan và toàn diện, được cấp có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản; nên có sự tham gia của các bên liên quan( cơ quan quản lý môi trường, chính quyền địa phương) từ khi bắt đầu triển khai dự án; tuân thủ các quy định về môi trường…
- Rủi ro kinh tế vĩ mô: Đây là những rủi ro phát sinh từ môi trường kinh tế vĩ mô, bao gồm tỉ giá hối đoái, lạm phát, lãi suất… Loại rủi ro này có thể giảm thiểu bằng cách: phân tích các điều kiện kinh tế vĩ mô cơ bản; sử dụng các công cụ thị trường như hoán đổi và tự bảo hiểm; bảo vệ trong các hợp đồng; đảm bảo của Nhà nước về phá giá tiền tệ và cung cấp ngoại hối…
Tổng hợp và đưa ra kết quả thẩm định, lập tờ trình thẩm định.
Sau khi đã thẩm định đầy đủ các nội dung đã nêu trên, cán bộ thẩm định lập tờ trình cho lãnh đạo Ngân hàng theo mẫu quy định đồng thời đưa ra ý kiến đề nghị của mình là cho vay hay không. Lãnh đạo Ngân hàng sẽ ra quyết định cuối cùng về việc cho vay hay từ chối cho vay.